Tam tạng Thánh điển PGVN 23 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Dịch tiếng Việt: TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo ngụ tại giảng đường Phổ Hội,3 trong thành Tỳ-xá-ly.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ðại Ái Ðạo cùng đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo-ni đang ngụ tại tinh xá Cao Ðài,4 thuộc thành Tỳ-xá-ly, hết thảy đều là bậc A-lahán, đã trừ sạch các phiền não.
Lúc ấy, Ðại Ái Ðạo nghe các Tỳ-kheo nói như vầy: “Chẳng bao lâu nữa, không quá ba tháng, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn giữa hai cây Sa-la,5 thuộc xứ Câu-thi-na.”6
Thế rồi, Đại Ái Đạo liền nghĩ: “Ta không thể kham nổi khi nhìn thấy Như Lai Diệt độ, cũng không thể kham nổi khi nhìn thấy A-nan Diệt độ. Nay ta nên Diệt độ trước.”
[0821c04] Lúc ấy, Ðại Ái Ðạo liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân rồi ngồi sang một bên. Bấy giờ, Đại Ái Đạo bạch đức Phật rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Con nghe tin chẳng bao lâu nữa, không quá ba tháng sau, Thế Tôn sẽ Diệt độ giữa hai cây Sa-la trong thành Câu-thi-na. Nay con không thể kham nổi khi nhìn thấy Thế Tôn và A-nan Diệt độ. Cúi xin Thế Tôn cho phép con được Diệt độ trước!
Khi ấy, Thế Tôn yên lặng hứa khả.
Thế rồi, Ðại Ái Ðạo lại bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Từ nay về sau, cúi xin Thế Tôn cho phép các Tỳkheo-ni được thuyết giới!
Đức Phật dạy:
– Nay Như Lai cho phép Tỳ-kheo-ni được thuyết giới cấm cho Tỳ-kheo-ni, hãy thực hành theo những giới cấm mà Như Lai đã chế định, đừng để sai phạm.
Lúc ấy, Ðại Ái Ðạo đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng trước Ngài. Đại Ái Đạo lại bạch Phật:
– Từ hôm nay, con sẽ không còn được thấy tôn nhan của Như Lai, cũng không còn thấy chư Phật trong tương lai, con không tái sanh nữa, vĩnh viễn ở cõi Niết-bàn.7 Kể từ hôm nay, con từ biệt tôn nhan bậc Thánh và không bao giờ gặp lại.
Thế rồi, Ðại Ái Ðạo nhiễu quanh Phật bảy vòng, cũng nhiễu quanh Tôn giả A-nan bảy vòng và nhiễu quanh tất cả chúng Tỳ-kheo rồi từ giã ra về. Khi trở về trong chúng Tỳ-kheo-ni, Đại Ái Đạo bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Nay ta muốn vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư.8 Sở dĩ như vậy, là vì Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ Diệt độ, các vị nên tùy nghi mà làm những việc cần làm.
Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Sai-ma, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-sắc, Tỳ-kheo-ni Cơ-lợithí, Tỳ-kheo-ni Xá-cừu-lê, Tỳ-kheo-ni Xa-ma, Tỳ-kheo-ni Bát-đà-lan-giá, Tỳkheo-ni Bà-la-giá-la, Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên, Tỳ-kheo-ni Xà-da9 và năm trăm Tỳ-kheo-ni cùng đi đến chỗ Thế Tôn rồi đứng sang một bên. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni thượng thủ Sai-ma liền bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nghe tin chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ Diệt độ, chúng con không thể kham nổi khi nhìn thấy Thế Tôn và Tôn giả A-nan Diệt độ trước. Cúi xin Thế Tôn cho phép chúng con được Diệt độ trước! Nay chúng con vào Niết-bàn, chính là đúng thời.
Lúc ấy, Thế Tôn yên lặng hứa khả.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Sai-ma và năm trăm Tỳ-kheo-ni thấy đức Thế Tôn yên lặng hứa khả, liền đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, trở về phòng của mình.
[0822a03] Thế rồi, Ðại Ái Ðạo đóng cửa giảng đường, đánh kiền chùy, trải tọa cụ nơi khoảng đất trống rồi bay lên hư không. Ở giữa hư không, Đại Ái Đạo liền ngồi, nằm, kinh hành, hoặc phát ra ngọn lửa; dưới thân bốc khói, trên thân bốc lửa; dưới thân tuôn nước, trên thân tuôn khói; toàn thân phóng lửa, toàn thân phóng khói; hông bên trái tuôn nước, hông bên phải tuôn lửa; hông bên phải tuôn nước, hông bên trái tuôn khói; phía trước tuôn lửa, phía sau tuôn nước; phía trước tuôn nước, phía sau tuôn lửa; toàn thân tuôn lửa, toàn thân tuôn nước.
Bấy giờ, Ðại Ái Ðạo biến hóa nhiều cách như thế rồi trở về chỗ cũ ngồi kiếtgià, thân tâm ngay thẳng, buộc niệm ở trước mặt rồi nhập vào Thiền thứ nhất, xuất Thiền thứ nhất rồi nhập vào Thiền thứ hai, xuất Thiền thứ hai rồi nhập vào Thiền thứ ba, xuất Thiền thứ ba rồi nhập vào Thiền thứ tư, xuất Thiền thứ tư rồi nhập Không xứ, xuất Không xứ rồi nhập Thức xứ, xuất Thức xứ rồi nhập Vô sở hữu xứ,10 xuất Vô sở hữu xứ rồi nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ,11 xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi nhập định Diệt tận,12 xuất định Diệt tận rồi nhập lại Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi nhập lại Vô sở hữu xứ, xuất Vô sở hữu xứ rồi nhập lại Thức xứ, xuất Thức xứ rồi nhập lại Không xứ, xuất Không xứ rồi nhập lại Thiền thứ tư, xuất Thiền thứ tư rồi nhập lại Thiền thứ ba, xuất Thiền thứ ba rồi nhập lại Thiền thứ hai, xuất Thiền thứ hai rồi nhập lại Thiền thứ nhất, xuất Thiền thứ nhất rồi nhập lại Thiền thứ hai, xuất Thiền thứ hai rồi nhập lại Thiền thứ ba, xuất Thiền thứ ba rồi nhập lại Thiền thứ tư. Khi đã vào Thiền thứ tư thì liền vào Diệt độ.
Lúc ấy, trời đất chấn động mạnh, phía Ðông nổi lên, phía Tây chìm xuống, phía Tây nổi lên, phía Ðông chìm xuống, bốn phía nổi lên, chính giữa chìm xuống. Lại nữa, gió mát thổi khắp bốn phía, chư thiên ở giữa hư không trỗi nhạc, hát xướng. Chư thiên cõi dục buồn khóc, nước mắt rơi xuống như cõi trời rưới nước mưa cam lộ vào những tháng mùa xuân. Chư thiên thần diệu thì nghiền hoa sen xanh làm bột thơm, lại nghiền bột chiên-đàn rồi rải trên thân Đại Ái Đạo.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Sai-ma, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-sắc, Tỳ-kheo-ni Cơ-lợi-thí Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni Xá-cù-ly,13 Tỳ-kheo-ni Xa-ma, Tỳ-kheo-ni Bà-đà-langiá-da, Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên, Tỳ-kheo-ni Xà-da, năm trăm vị Tỳ-kheo-ni thượng thủ như thế, mỗi vị đều trải tòa ngồi nơi đất trống, bay lên hư không, rồi ở giữa hư không mà nằm, ngồi, kinh hành, biến hóa mười tám cách cho đến nhập vào định Diệt tận rồi vào Diệt độ.
[0822b03] Lúc ấy, trong thành Tỳ-xá-ly có vị đại tướng tên là Da-thâu-đề dẫn năm trăm thiếu niên tập hợp tại giảng đường Phổ Hội để nghe thuyết pháp. Bấy giờ, từ xa, Da-thâu-đề và năm trăm thiếu niên nhìn thấy năm trăm vị Tỳkheo-ni đang biến hóa mười tám cách, thấy như vậy rồi, thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, tất cả đều chắp tay hướng về các vị ấy.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo A-nan:
– Thầy hãy đến chỗ Đại tướng Da-thâu-đề rồi bảo rằng: “Hãy mau sắm sửa năm trăm giường nằm, năm trăm tòa ngồi, năm trăm bình bơ, năm trăm bình dầu, năm trăm kiệu hoa, năm trăm gói hương và năm trăm xe củi.”
Bấy giờ, A-nan đến trước Phật, thưa:
– Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng biết Thế Tôn định làm gì?
Phật dạy:
– Ðại Ái Ðạo đã Diệt độ rồi, năm trăm Tỳ-kheo-ni cũng nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ cúng dường Xá-lợi.
Thế rồi, A-nan vừa buồn vừa khóc, không thể kiềm chế: “Tại sao Ðại Ái Đạo lại Diệt độ nhanh chóng quá!”
Bấy giờ, A-nan đưa tay gạt dòng lệ rồi đi đến chỗ Đại tướng Da-thâu-đề.
Từ xa, thấy Tôn giảA-nan đi đến, Da-thâu-đề liền đứng dậy đón tiếp rồi thưa:
– Lành thay! Tôn giả A-nan! Tôn giả có điều gì dạy bảo, sao lại đến bất ngờ như thế?
Lúc ấy, A-nan đáp:
– Đức Phật sai tôi đến, do có việc muốn nói với ông.
Ðại tướng liền hỏi:
– Tôn giả có điều gì dạy bảo?
A-nan đáp:
– Thế Tôn bảo Đại tướng rằng: “Hãy sắm sửa năm trăm giường nằm, năm trăm tòa ngồi, năm trăm bình bơ, năm trăm bình dầu, năm trăm kiệu hoa, năm trăm gói hương và năm trăm xe củi. Ðại Ái Ðạo và năm trăm Tỳ-kheo-ni đều đã Diệt độ, chúng ta đến đó để cúng dường Xá-lợi.”
Lúc ấy, đại tướng vừa buồn vừa khóc rồi nói như vầy:
– Tại sao Ðại Ái Ðạo lại Diệt độ nhanh chóng quá! Năm trăm Tỳ-kheo-ni cũng Diệt độ nhanh chóng quá! Ai sẽ giáo hóa cho chúng ta, ai sẽ chỉ dạy về cúng dường, bố thí?
Thế rồi, Đại tướng Da-thâu-đề liền sắm sửa năm trăm giường nằm, năm trăm tòa ngồi, năm trăm bình dầu, năm trăm bình bơ, năm trăm xe củi và các vật dụng để hỏa thiêu rồi đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Lúc ấy, Đại tướng Da-thâu-đề bạch Thế Tôn:
– Bạch đức Thế Tôn! Ngài dạy con sắm sửa các vật dụng để cúng dường, hôm nay con đã chuẩn bị xong.
Phật dạy:
– Bây giờ, các ông hãy đem nhục thân của Ðại Ái Ðạo và nhục thân của năm trăm Tỳ-kheo-ni đến nơi khoảng đất trống ở ngoài thành Tỳ-xá-ly, Ta muốn đến đó cúng dường Xá-lợi.
Ðại tướng Da-thâu-đề bạch Phật:
– Xin vâng, bạch đức Thế Tôn!
Lúc ấy, đại tướng14 liền đến chỗ của Ðại Ái Ðạo và các Tỳ-kheo-ni rồi bảo một người:
– Ngươi hãy bắc thang leo qua tường vào bên trong, từ từ mở cửa đừng gây tiếng động.
Lúc ấy, người kia nghe theo lời dạy liền vào mở cửa. Ðại tướng lại sai năm trăm người đưa các nhục thân đặt lên giường. Bấy giờ, ở đó có hai Sa-di-ni, một vị tên là Nan-đà, vị thứ hai tên là Ưu-bàn-nan-đà. Hai Sa-di-ni bảo đại tướng:
– Thôi, thôi! Này Đại tướng! Chớ quấy nhiễu các thầy.
Ðại tướng Da-thâu-đề bảo:
– Thầy của các cô không phải đang ngủ mà tất cả đều đã Diệt độ.
Bấy giờ, nghe các thầy đều đã Diệt độ, trong tâm của hai Sa-di-ni rất đỗi lo sợ, liền tự mình tư duy, xét thấy các pháp nếu có tập khởi đều là pháp diệt tận, lập tức ngay tại chỗ ngồi hai vị chứng đạt được Ba minh và Sáu thông. Lúc ấy, hai Sa-di-ni liền bay lên hư không, đến chỗ đất trống, trước tiên thực hành mười tám phép thần biến, nằm, ngồi, kinh hành, thân phóng ra nước, phóng ra lửa, biến hóa không thể tính kể, sau đó liền nhập Niết-bàn nơi cảnh giới Vô dư Niết-bàn.
Bấy giờ, Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo-tăng tuần tự trước sau, cùng đi đến tinh xá của Tỳ-kheo-ni Ðại Ái Ðạo.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan, Nan-đà và La-hầu-la:15
– Các thầy hãy khiêng nhục thân của Ðại Ái Ðạo, Ta sẽ đích thân cúng dường.
Bấy giờ, biết được suy nghĩ trong tâm của Thế Tôn, Thích-đề-hoàn-nhân liền từ cõi trời Ba Mươi Ba, trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi cánh tay liền đến thành Tỳ-xá-ly, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân Ngài rồi đứng sang một bên. Những vị Tỳ-kheo đã trừ sạch phiền não ở trong chúng đều nhìn thấy Thích-đề-hoàn-nhân và thiên chúng cõi trời Ba Mươi Ba, còn những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di vẫn còn tham dục, chưa dứt sạch phiền não đều không thể nhìn thấy họ.
Thế rồi, từ nơi xa, biết được suy nghĩ trong tâm Như Lai, vua cõi trời Phạm thiên cùng thiên chúng ẩn thân từ cõi Phạm thiên, hiện đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy sát chân Phật rồi đứng sang một bên.
Bấy giờ, biết được suy nghĩ trong tâm của Thế Tôn, Thiên vương Tỳ-samôn dẫn theo các dạ-xoa,16 quỷ thần đi đến chỗ Như Lai, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Lúc ấy, Thiên vương Ðề-địa-lại-tra cùng các vị thần càn-thát-bà, từ phương Ðông đến chỗ Như Lai, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa cùng vô số thần cưu-bàn-trà, từ phương Nam đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Thiên vương Tỳ-lâu-ba-xoa cùng các long thần đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Hết thảy thiên chúng cõi dục, thiên chúng cõi sắc và thiên chúng cõi vô sắc đều biết suy nghĩ trong tâm Như Lai nên đều đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
[0823a07] Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân và Thiên vương Tỳ-sa-môn đến trước bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn chớ lao nhọc sức thần, đích thân chúng con sẽ cúng dường Xá-lợi!
Phật bảo chư thiên:
– Thôi, thôi! Thiên vương! Như Lai tự biết việc gì cần làm. Ðây là việc mà Như Lai cần phải làm, chẳng phải hàng trời, rồng hay quỷ thần có thể làm được. Vì sao như thế? Vì cha mẹ sanh con ra đã cho con nhiều lợi ích, ân nặng dưỡng nuôi, bú mớm, ẵm bồng nên cần phải báo ân, không thể không báo đáp. Thế nhưng, chư thiên nên biết! Thân mẫu hạ sanh chư Phật, Thế Tôn thuở quá khứ đều Diệt độ trước, sau đó chư Phật, Thế Tôn đều đích thân cúng dường trà-tỳ Xá-lợi. Giả sử Thân mẫu hạ sanh chư Phật, Thế Tôn ở tương lai cũng Diệt độ trước thì về sau chư Phật đều đích thân cúng dường. Nhờ phương cách này mà biết, Như Lai nên đích thân cúng dường, chẳng phải hàng trời, rồng hay quỷ thần có thể làm được.
Bấy giờ, Thiên vương Tỳ-sa-môn bảo năm trăm quỷ thần:
– Các ngươi đi vào trong rừng chiên-đàn lấy củi thơm về đây để cúng dường trà-tỳ.
Bấy giờ, Thiên vương nói xong, năm trăm quỷ thần liền đến rừng chiên-đàn lấy củi chiên-đàn đem đến chỗ đất trống.
Lúc ấy, Thế Tôn đích thân khiêng một chân giường, Nan-đà khiêng một chân giường, La-hầu-la khiêng một chân giường và A-nan khiêng một chân giường đặt nhục thân của Đại Ái Đạo rồi bay lên hư không đi đến bãi tha ma. Hết thảy bốn bộ chúng gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di đưa nhục thân của năm trăm Tỳ-kheo-ni đến bãi tha ma.
Bấy giờ, Phật bảo Đại tướng Da-thâu-đề:
– Ông hãy sắm sửa thêm hai giường nằm, hai tòa ngồi, hai xe củi và hương hoa để cúng dường nhục thân hai vị Sa-di-ni.
Ðại tướng Da-thâu-đề bạch Phật:
– Xin vâng, bạch đức Thế Tôn!
Ngay lúc ấy, đại tướng liền sắm sửa các vật dụng cúng dường.
Bấy giờ, Thế Tôn lấy củi chiên-đàn đưa cho mỗi vị trời. Thế Tôn lại bảo đại tướng:
– Ông hãy sắp đặt năm trăm nhục thân giao cho từng người, mỗi người đều cúng dường nhục thân riêng biệt của từng vị. Hai vị Sa-di-ni cũng như vậy.
[0823b01] Thế rồi, đại tướng vâng lời Phật dạy, sắp đặt từng vị để lo việc cúng dường, rồi chuẩn bị hỏa thiêu.
Lúc ấy, Thế Tôn lại dùng gỗ chiên-đàn chất lên trên nhục thân Ðại Ái Ðạo. Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Các pháp đều vô thường,
Có sanh phải có diệt,
Không sanh thì không diệt,
Tịch diệt mới chân thường.
Thế rồi, chư thiên và dân chúng thảy đều vân tập ở chỗ hỏa táng. Đại chúng trời, người lên đến mười ức na-do-tha.17
Lúc ấy, sau khi lửa tắt, đại tướng liền thu nhặt Xá-lợi và xây tháp.
Phật dạy đại tướng:
– Ông hãy thu nhặt Xá-lợi của năm trăm Tỳ-kheo-ni rồi xây tháp thì sẽ được phước đức trong lâu dài, không thể tính kể. Vì sao như thế? Bởi vì, thế gian có bốn hạng người nên xây tháp. Họ là những ai? Nếu có người xây tháp thờ Như Lai, bậc Chí Chân, Ðẳng Chánh Giác, xây tháp thờ Chuyển Luân Thánh vương, thờ hàng Thanh văn và bậc Độc giác thì được phước không thể tính kể.
Bấy giờ, Thế Tôn giảng nói pháp vi diệu cho chư thiên và loài người, khuyến khích khiến họ hoan hỷ. Lúc ấy, có một ức chư thiên và loài người dứt sạch các phiền não, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, chư thiên, loài người, càn-thát-bà,18 a-tu-la19 và bốn bộ chúng nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành Xá-vệ, có Tỳ-kheo-ni tên là Bà-đà21 cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đi du hóa ở một chốn nọ.
Thế rồi, khi ở nơi thanh vắng, Tỳ-kheo-ni Bà-đà ngồi kiết-già, buộc niệm trước mặt rồi tư duy, tự mình nhớ lại nhiều việc trong vô số kiếp về trước nên liền mỉm cười.
Từ xa, có Tỳ-kheo-ni nhìn thấy Tỳ-kheo-ni Bà-đà mỉm cười, thấy như vậy rồi, liền đến chỗ Tỳ-kheo-ni và thưa:
– Tỳ-kheo-ni Bà-đà ngồi một mình dưới cội cây lại mỉm cười, là có nhân duyên gì?
Thế rồi, năm trăm Tỳ-kheo-ni liền cùng nhau đến chỗ Tỳ-kheo-ni Bà-đà, cúi đầu lễ sát chân. Năm trăm Tỳ-kheo-ni thưa Tỳ-kheo-ni Bà-đà:
– Do nhân duyên gì mà khi ngồi một mình bên cội cây lại mỉm cười?
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Bà-đà bảo năm trăm Tỳ-kheo-ni:
– Vừa rồi, trong lúc đang ngồi bên gốc cây này, tôi nhớ lại những sự việc đã xảy ra trong vô số kiếp trước, lại thấy phải thọ nhiều thân trong những kiếp trước, chết ở nơi này sanh ở chốn kia, thảy đều nhìn thấy.
[0823c01] Lúc ấy, năm trăm Tỳ-kheo-ni lại thưa:
– Cúi xin Sư tỷ giảng nói những nhân duyên thuở quá khứ!
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Bà-đà bảo năm trăm Tỳ-kheo-ni:
– Thuở quá khứ lâu xa, cách đây chín mươi mốt kiếp, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Chí Chân, Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc,22 Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,23 Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn24 xuất hiện ở đời. Thuở ấy, có cõi nước tên là Bàn-đầu-ma, dân chúng sung túc không thể tính kể. Bấy giờ, Như Lai Tỳ-bà-thi du hóa nơi cõi nước ấy và thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo gồm mười sáu vạn tám ngàn vị đang tuần tự vây quanh trước sau. Lúc ấy, danh hiệu của Phật truyền khắp bốn phương: “Đức Phật Tỳ-bà-thi đầy đủ các tướng tốt, là ruộng phước lành cho tất cả chúng sanh.”
Bấy giờ, trong cõi nước kia có thiếu niên tên là Phạm Thiên, dung mạo đoan chánh, hiếm có trong đời. Khi thiếu niên kia đang đi trên đường, trên tay cầm lọng báu thì cùng lúc ấy, có người vợ của một cư sĩ, dung mạo cũng rất đoan chánh, cùng đi trên con đường kia nên mọi người đều nhìn theo. Thế rồi, thiếu niên liền nghĩ: “Dung mạo của ta cũng đoan chánh, tay cầm lọng báu nhưng mọi người chẳng ai nhìn theo ta, tất cả dân chúng lại nhìn theo người phụ nữ kia. Nay ta phải tìm phương cách, khiến mọi người đều phải nhìn ta.”
Thế rồi, thiếu niên ấy liền ra khỏi thành, đến chỗ đức Phật Tỳ-bà-thi, cầm hoa báu trên tay để cúng dường suốt bảy ngày bảy đêm rồi phát lời nguyện rằng: “Nếu đức Phật Tỳ-bà-thi có thần túc như vầy, có thần lực như vầy, là ruộng phước cho cõi người, cõi trời thì con nguyện đem công đức này khiến trong đời tương lai sẽ được làm thân người nữ, mọi người nhìn thấy thảy đều vui mừng.”
Bấy giờ, trải qua bảy ngày bảy đêm cúng dường đức Phật kia rồi, tùy theo tuổi thọ dài hay ngắn, sau đó thiếu niên liền sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, được làm thân thiên nữ ở cõi ấy, rất mực đoan chánh, bậc nhất trong các ngọc nữ, có năm công đức thù thắng hơn các thiên nữ kia. Đó là những gì? Đó là, tuổi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, an vui cõi trời, oai phước cõi trời và tự tại cõi trời. Lúc ấy, chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba nhìn thấy rồi, hết thảy đều bảo: “Thiên nữ này rất mực thù thắng, vi diệu, không ai sánh bằng.” Trong số đó hoặc có vị trời nói: “Ta mong có được thiên nữ này để làm thiên hậu.” Thế rồi họ tranh giành lẫn nhau. Lúc ấy, Vua Đại Thiên bảo:
“Các ông chớ có tranh cãi nhau, trong các vị ở đây, nếu ai có thể thuyết pháp thật hay thì ta sẽ gả thiên nữ này về làm vợ.”
[0824a01] Bấy giờ, có vị thiên tử nói kệ như vầy:
Lúc ngồi hay lúc đứng,
Ngày đêm25 mãi chẳng khuây,
Chỉ khi tôi ngủ say,
Lòng mới thôi mơ ước.
Lúc ấy, lại có vị thiên tử nói kệ như vầy:
Ông đã được an khang,
Khi ngủ chẳng mơ màng,
Nay tôi khởi lòng dục,
Như trống trận rộn ràng.
Bấy giờ, lại có vị thiên tử nói kệ như vầy:
Dẫu có đánh trống trận,
Vẫn có lúc tạm dừng,
Lòng dục tôi dào dạt,
Như nước cuốn không ngừng.
Lúc ấy, lại có vị thiên tử nói kệ như vầy:
Như nước cuốn cây to,
Vẫn có khi dừng lại,
Lòng dục tôi nghĩ mãi,
Đau đáu như bắt chim.26
Bấy giờ, có vị thiên tử tôn quý bậc nhất trong hàng chư thiên, nói kệ cho chúng cõi trời như vầy:
Các ông thật nhàn hạ,
Nói kệ của riêng mình,
Tôi còn chưa thấy ra,
Mình còn hay đã mất?
Lúc ấy, chư thiên thưa với vị thiên tử ấy:
“Lành thay, này thiên tử! Bài kệ ông nói rất thanh tao và vi diệu. Nay xin dâng thiên nữ này cho Thiên vương.”
Bấy giờ, thiên nữ liền vào cung của Thiên vương.
Các Tỳ-kheo-ni chớ nên nghi ngờ. Vìsao như thế? Vì thiếu niên cúng dường lọng báu27 lên đức Phật thuở ấy là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như thế, vì thiếu niên lúc ấy chính là thân tôi.
Thuở quá khứ, cách đây ba mươi mốt kiếp, có đức Phật hiệu Thi-khí Như Lai xuất hiện ở đời, Ngài cùng với chúng Tỳ-kheo gồm mười sáu vạn người du hóa nơi cõi nước Dã Mã. Bấy giờ, thiên nữ kia sau đó qua đời rồi sanh trong loài người, làm thân người nữ rất mực đoan chánh, hiếm có trong đời.
Lúc ấy, đức Như Lai Thi-khí đúng thời liền đắp y, ôm bát đi vào thành Dã Mã khất thực. Bấy giờ, thiên nữ lại làm vợ của trưởng giả, đem các món ăn thức uống ngon ngọt cúng dường lên đức Phật Thi-khí rồi phát nguyện rằng: “Nguyện đem phước nghiệp công đức này, dù sanh bất cứ nơi nào cũng không bị đọa trong ba đường ác, dung mạo đoan chánh, thù thắng hơn người.”
Bấy giờ, người nữ kia về sau lại qua đời, sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, lại được làm thân nữ ở cõi ấy, rất mực đoan chánh, có năm công đức hơn hẳn các chư thiên khác. Thiên nữ thuở ấy là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như thế! Vì sao như vậy? Bởi vì thiên nữ thuở ấy chính là thân tôi.
[0824b04] Cũng trong kiếp ấy, có đức Như Lai Tỳ-xá-la-bà xuất hiện ở đời. Bấy giờ, tùy theo thọ mạng của thiên nữ dài hay ngắn, sau khi qua đời lại được sanh trong loài người, làm thân người nữ, dung mạo đoan chánh, hiếm có trong đời, lại làm vợ của một vị trưởng giả. Bấy giờ, phu nhân của trưởng giả lại đem y phục tốt đẹp dâng lên đức Như Lai rồi phát thệ nguyện rằng: “Nguyện cho đời tương lai, con lại được làm thân nữ.” Thế rồi, thọ mạng đã hết, phu nhân ấy được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, dung mạo đoan chánh, hơn hẳn các thiên nữ ở cõi trời ấy. Phu nhân thuở ấy là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như thế. Vì sao như vậy? Vì phu nhân thuở ấy chính là thân tôi.
Thế rồi, tùy theo tuổi thọ dài hay ngắn, thọ mạng đã hết, thiên nữ ấy sanh trở lại trong cõi người, làm nô tỳ cho trưởng giả Nguyệt Quang trong thành lớn Ba-la-nại, với dung mạo xấu xí, chẳng ai muốn nhìn.
Từ lúc đức Phật Tỳ-xá-la-bà Diệt độ, không có vị Phật nào ra đời. Thuở ấy chỉ có bậc Độc giác đi du hóa. Bấy giờ, phu nhân của trưởng giả Nguyệt Quang sai nữ tỳ:
“Ngươi hãy đi ra ngoài, tìm vị Sa-môn nào có dung mạo đoan chánh, hợp với ý ta thì thỉnh về nhà để ta cúng dường.”
Thế rồi, nữ tỳ liền rời khỏi nhà, đi ra ngoài để tìm Sa-môn, liền gặp vị Độc giác đang đi khất thực trong thành. Tuy nhiên, vị ấy có dáng vẻ thô kệch, dung mạo xấu xí.
Bấy giờ, nữ tỳ ấy thưa với vị Độc giác:
“Chủ nhân28 của con mong muốn được gặp, cúi xin Ngài hạ cố đến nhà con!”
Nữ tỳ liền trở về thưa với chủ nhân:
“Sa-môn đã đến, mời phu nhân ra gặp!”
Lúc ấy, vừa trông thấy Sa-môn, phu nhân của trưởng giả không vui trong lòng, liền bảo nữ tỳ:
“Hãy đuổi thầy ấy đi, ta không bố thí! Vì sao như vậy? Do vì dung mạo của thầy ấy xấu xí.”
Bấy giờ, nữ tỳ thưa phu nhân:
“Nếu phu nhân không bố thí cho vị Sa-môn này thì con sẽ lấy phần ăn của con hôm nay đem cúng hết cho Ngài!”
Thế rồi, phu nhân liền phát phần ăn cho nữ tỳ là một thăng29 gạo tấm, nữ tỳ ấy nhận lấy rồi đem cúng dường lên Sa-môn. Nhận thức ăn xong, đức Độc giác liền bay lên giữa hư không rồi thực hành mười tám phép biến hóa. Bấy giờ, nữ tỳ của trưởng giả lại phát nguyện: “Nguyện nhờ công đức này, cho dù sanh vào chỗ nào cũng không bị đọa trong ba đường ác, vào đời sau cho con được làm thân nữ, rất mực đoan chánh.”
[0824c01] Lúc ấy, đức Độc giác bưng bát cơm trên tay rồi bay quanh thành ba vòng.
Bấy giờ, trưởng giả Nguyệt Quang và năm trăm khách buôn cùng nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội. Hết thảy nam nữ, lớn nhỏ trong thành kia đều trông thấy đức Độc giác bưng bát cơm bay giữa hư không. Thấy như vậy rồi, họ bảo nhau:
“Người nào mà có công đức như thế? Ai đã được gặp vị Độc giác này để cúng dường thức ăn?”
Khi ấy, nữ tỳ của trưởng giả thưa với phu nhân:
“Hãy ra xem thần đức của Sa-môn, Ngài bay lên giữa hư không, biến hóa mười tám cách, thần đức vô lượng!”
Lúc ấy, phu nhân của trưởng giả bảo nữ tỳ:
“Ngươi bố thí thức ăn cho Sa-môn, nếu được phước thì hãy trao hết cho ta, ta sẽ trả cho ngươi thức ăn dùng cho hai ngày!”
Nữ tỳ liền thưa:
“Phước ấy không thể nào đem cho được.”
Phu nhân bảo:
“Ta sẽ trả cho ngươi thức ăn dùng cho bốn ngày cho đến mười ngày.”
Nữ tỳ kia thưa:
“Con không thể đem phước cho được.”
Phu nhân bảo:
“Ta sẽ cho ngươi một trăm đồng tiền vàng.”
Nữ tỳ kia thưa:
“Con không cần!”
Phu nhân lại bảo:
“Ta sẽ cho ngươi hai trăm, cho đến một ngàn đồng tiền vàng.”
Nữ tỳ kia thưa:
“Con cũng không cần!”
Phu nhân bảo:
“Ta sẽ miễn cho ngươi khỏi làm phận tôi tớ.”
Nữ tỳ thưa:
“Con cũng chẳng cầu mong làm người bình thường.”
Phu nhân lại bảo:
“Ta sẽ đổi cho ngươi làm phu nhân còn ta làm nữ tỳ.”
Nữ tỳ kia đáp:
“Con cũng chẳng cầu mong làm phu nhân.”
Phu nhân bảo:
“Bây giờ, ta sẽ bắt giữ ngươi rồi đánh đập, xẻo mũi, cắt tai, chặt hết tay chân rồi sẽ chặt đầu của ngươi.”
Nữ tỳ kia đáp:
“Con sẽ cam chịu hết mọi sự khốn khổ nhưng không bao giờ đem phước để cho đi. Thân của con tuy thuộc về phu nhân, nhưng tâm lành thì mỗi người khác biệt.”
Thế rồi, phu nhân của trưởng giả liền đánh đập nữ tỳ ấy.
Lúc ấy, năm trăm khách buôn đều bàn tán rằng:
“Vị Thánh nhân này hôm nay đến khất thực, chắc chắn là do gia đình ta bố thí.”
Bấy giờ, giải tán mọi người xong, trưởng giả Nguyệt Quang trở về nhà, thấy phu nhân đang đánh đập nữ tỳ, liền hỏi:
“Do nguyên nhân gì mà đánh đập nữ tỳ này?”
Lúc ấy, nữ tỳ liền thuật lại đầy đủ mọi việc. Thế rồi, trưởng giả Nguyệt Quang thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, liền giáng phu nhân xuống làm nữ tỳ, rồi đưa nữ tỳ ấy thế chỗ của phu nhân.
Bấy giờ, thành Ba-la-nại có vị vua tên là Phạm-ma-đạt cai trị. Khi nghe trưởng giả Nguyệt Quang dâng cơm cho bậc Độc giác, đại vương kia rất đỗi vui mừng, vì đã được gặp bậc Chân nhân lại còn tùy thời bố thí. Vua Phạm-ma-đạt liền sai người mời trưởng giả Nguyệt Quang đến rồi hỏi:
“Có phải khanh đã thật sự cúng dường thức ăn cho bậc Chân nhân thần tiên không?”
Trưởng giả tâu:
“Đúng là thần đã gặp bậc Chân nhân rồi cúng dường cơm cho Ngài.”
Lúc ấy, Vua Phạm-ma-đạt liền ban thưởng rồi thăng chức vị cho trưởng giả.
Thế rồi, tùy theo tuổi thọ dài hay ngắn, sau khi qua đời, nữ tỳ của trưởng giả kia được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba với dung nhan thù thắng, hiếm có trong đời, cùng với năm công đức hơn hẳn các vị trời khác. Các Sư muội chớ nghĩ nữ tỳ của trưởng giả thuở ấy là người nào khác, vì đó chính là thân ta.
[0825a06] Trong Hiền kiếp này có đức Phật ra đời hiệu là Câu-lưu-tôn Như Lai. Lúc ấy, tùy theo thọ mạng dài hay ngắn, thiên nữ kia sau khi qua đời, sanh trong cõi người, làm con gái Phạm chí Da-nhã-đạt. Bấy giờ, cô gái ấy lại cúng dường cơm cho Như Lai và phát thệ nguyện, cầu xin được làm thân người nữ. Về sau, khi thọ mạng hết, cô được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, dung mạo đoan chánh hơn hẳn các thiên nữ khác. Từ đó rồi lại mạng chung liền sanh vào trong loài người.
Bấy giờ, đức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni xuất hiện ở đời. Lúc ấy, thiên nữ kia làm con gái của trưởng giả, lại đem hoa bằng vàng cúng dường đức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni: “Xin đem công đức này, nguyện sanh vào chốn nào cũng không đọa vào ba đường ác, đời sau cho con được làm thân người nữ.” Thế rồi, tùy theo thọ mạng dài hay ngắn, sau khi qua đời, cô gái ấy sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, dung mạo đoan chánh, hơn hẳn tất cả thiên nữ, cùng với năm công đức không ai sánh bằng. Con gái của trưởng giả cúng dường đức Phật Câu-nahàm-mâu-ni thuở ấy là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như thế! Vì con gái của trưởng giả thuở ấy chính là thân ta.
Bấy giờ, tùy theo thọ mạng dài hay ngắn, thiên nữ ấy sanh trở lại cõi người làm vợ của trưởng giả, dung mạo xinh đẹp thù thắng, hiếm có trong đời. Lúc ấy, đức Phật Ca-diếp xuất hiện ở đời, phu nhân của trưởng giả cúng dường đức Phật Ca-diếp trong bảy ngày bảy đêm, phát thệ nguyện rằng: “Đời sau cho con được làm thân người nữ.” Thế rồi, tùy theo tuổi thọ dài hay ngắn, khi thọ mạng hết, phu nhân của trưởng giả sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba, có năm công đức hơn hẳn các thiên nữ ở cõi ấy. Phu nhân của trưởng giả cúng dường Phật Ca-diếp thuở ấy là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như thế! Vì phu nhân của trưởng giả thuở ấy chính là thân ta.
Vào Hiền kiếp này có đức Phật Thích-ca xuất hiện ở đời. Sau khi qua đời, thiên nữ ấy lại sanh vào thành La-duyệt, làm con gái Bà-la-môn Kiếp-tỷ-la, dung mạo đoan chánh, hơn hẳn các thiếu nữ khác. Con gái của Bà-la-môn Kiếp-tỷ-la đẹp như pho tượng bằng vàng tử-ma, khiến cho ai đến gần nàng đều tối đen như mực. Tâm của nàng ấy không tham đắm năm dục. Các Sư muội chớ nghĩ cô gái ấy là người nào khác chăng? Con gái của Bà-la-môn thuở ấy, đó chính là thân ta.
Các Sư muội nên biết! Do nhân duyên phước báu của công đức thuở xưa nên ta được làm phu nhân của chàng Tỷ-bát-la, chính là Đại Ca-diếp. Tôn giả Ðại Ca-diếp xuất gia trước, về sau ta mới xuất gia. Nhớ lại những lúc làm thân người nữ đã trải qua thuở xưa, cho nên hôm nay ta mỉm cười. Bởi vì si mê thiếu trí tuệ nên ta đã cúng dường sáu đức Như Lai chỉ cầu mong được làm thân người nữ. Do nhân duyên này nên ta mỉm cười, bởi những việc đã trải qua thuở xưa.
[0825b08] Bấy giờ, nghe Tỳ-kheo-ni Bà-đà nhớ lại những việc đã qua trong vô số đời quá khứ, các Tỳ-kheo-ni liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên, đem hết mọi nhân duyên thưa với đức Như Lai.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các vị có thấy trong hàng Thanh văn, có Tỳ-kheo-ni nào nhớ được mọi việc trong vô số đời như Tỳ-kheo-ni ấy chăng?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng con không thấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ tử bậc nhất nhớ được mọi việc trong vô số kiếp trước, chính là Tỳ-kheo-ni Kiếp-tỷ-la30 này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên.
Giây lát sau, vị Tỳ-kheo rời khỏi chỗ ngồi, đến trước bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Kiếp dài hay ngắn? Có giới hạn chăng?
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Kiếp rất dài lâu, Ta sẽ nêu thí dụ cho thầy. Hãy chú tâm lắng nghe, nay Ta sẽ giảng nói!
Lúc ấy, Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Đức Thế Tôn dạy:
– Tỳ-kheo nên biết, ví như có thành bằng sắt dài rộng một do-tuần, cao một do-tuần,32 chứa đầy hạt cải ở trong ấy không còn chỗ trống. Giả sử một trăm năm, có người đến lấy đi một hạt cải, số hạt cải trong thành sắt ấy vì vậy sẽ giảm bớt cho đến khi hết sạch mà một kiếp vẫn không thể tính kể. Vì sao như thế? Vì sanh tử dài lâu, không có giới hạn, chúng sanh do ân ái trói buộc nên mãi xoay vần trong sanh tử, chết nơi này lại sanh nơi kia, không hề cùng tận. Ta ở trong chốn sanh tử đó mà nhàm chán sanh tử.
Thật vậy, này Tỳ-kheo! Nên khéo tìm cầu phương tiện để thoát khỏi tưởng tham ái đắm nhiễm này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.33
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên.
Thế rồi, Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Kiếp có dài lâu chăng?
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Kiếp rất dài lâu, không thể ước lượng và tính toán được. Nay Ta sẽ nêu ví dụ cho thầy. Hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ giảng nói!
Lúc ấy, Tỳ-kheo kia vâng lời lắng nghe. Thế Tôn dạy:
– Cũng như có núi đá vuông vắn một do-tuần, giả sử có người đến đó, tay cầm tấm vải cõi trời, rồi một trăm năm mới lau qua một lượt, do việc đó mà núi đá hao mòn rồi tiêu mất, nhưng kiếp số thì khó hạn định. Vì sao như thế? Vì kiếp số dài lâu, không có bờ mé, cứ như vậy chẳng phải một kiếp hay trăm kiếp. Vì sao như thế? Vì sanh tử dài lâu, không thể hạn lượng, không có bờ mé. Các loài chúng sanh bị vô minh che lấp nên mãi xoay vần trong sanh tử, không có kỳ hạn thoát ra, chết ở nơi này lại sanh ở chốn kia, không hề cùng tận. Ta ở trong chốn sanh tử đó mà nhàm chán sanh tử.
Thật vậy, này Tỳ-kheo! Nên khéo tìm cầu phương tiện để thoát khỏi tưởng tham ái đắm nhiễm này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nghe pháp đúng thời, thường không trái thời thì có năm công đức. Là những công đức nào? Một là, pháp chưa từng nghe liền được nghe. Hai là, pháp đã được nghe rồi liền thọ trì. Ba là, trừ bỏ nghi ngờ. Bốn là, không có tà kiến. Năm là, hiểu rõ giáo pháp sâu xa. Này Tỳ-kheo! Đó gọi là nghe pháp đúng thời thì có năm công đức.
Cho nên, này Tỳ-kheo! Nên nhớ nghĩ, thường nghe pháp sâu xa. Ðây là lời dạy bảo của Ta.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Nên học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo ngụ trong vườn Ma-ha Bà-na,37 thuộc thành Tỳ-xá-ly.
Bấy giờ, Đại tướng Sư Tử đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên.
Lúc ấy, đức Như Lai bảo đại tướng:
– Người thí chủ, người bố thí38 có năm công đức. Là những công đức nào? Đó là, danh tiếng của thí chủ vang xa, nghĩa là trong thôn xóm ấy có người như thế ưa thích bố thí, chu cấp cho người nghèo khổ, giúp đỡ người thiếu thốn mà không hề tham tiếc. Này Đại tướng Sư Tử! Ðó là công đức thứ nhất mà thí chủ đạt được.
Lại nữa, này Đại tướng Sư Tử! Nếu như người thí chủ, người bố thí đi vào trong chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn và chúng Sa-môn thì không hề sợ hãi, cũng không bị nghi ngờ. Này Sư Tử! Ðó là công đức thứ hai.
Lại nữa, người thí chủ, người bố thí được nhiều người thương mến, thảy đều kính ngưỡng như con yêu mẹ, tâm của họ không muốn rời xa. Người thí chủ cũng lại như thế, được nhiều người yêu mến.
Lại nữa, này Sư Tử! Người thí chủ, người bố thí đang lúc bố thí thì phát tâm hoan hỷ, do có tâm hoan hỷ nên sanh vui mừng, tâm tánh kiên định, lúc ấy liền tự cảm nhận có vui, có khổ, cũng không hối tiếc, rồi tự biết như thật. Vì sao gọi là tự biết? Vì biết có khổ, nguyên nhân của khổ, khi khổ đã diệt sạch và con đường đưa đến diệt khổ, thảy đều biết đúng như thật.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Bố thí phước vẹn toàn,
Đạt được nghĩa chân thật,
Ai thường hay bố thí,
Liền phát tâm hân hoan
. Lại nữa, này Đại tướng39 Sư Tử! Người thí chủ, người bố thí đang lúc bố thí mà qua đời thì sẽ được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba,40 lại có năm điều hơn hẳn chư thiên trong cõi ấy. Là năm điều nào? Một là, dung mạo cao quý, oai thần rực rỡ. Hai là, mong ước tự tại, không việc gì mà không thành tựu. Ba là, nếu người thí chủ, người bố thí sanh trong loài người thì gặp gia đình giàu có. Bốn là, có nhiều của cải châu báu. Năm là, lời nói được người tin thuận.
Này Sư Tử! Ðó gọi là người bố thí có năm công đức đưa đến cõi lành.
Bấy giờ, nghe lời Phật dạy, Đại tướng Sư Tử thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, liền đến trước bạch Phật:
– Cúi xin Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo nhận lời cúng dường của con!
Lúc ấy, Thế Tôn im lặng nhận lời.
Thấy Thế Tôn im lặng nhận lời rồi, Đại tướng Sư Tử liền rời chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ sát chân Phật rồi lui ra. Về đến nhà, đại tướng sắm sửa đầy đủ các thức ăn uống, sửa soạn chỗ ngồi tốt đẹp rồi đến bạch Phật:
– Nay chính là đúng thời, cúi xin Đại Thánh rủ lòng thương, hạ cố đến nhà con!
[0826b01] Thế rồi, đức Thế Tôn đúng thời đắp y, ôm bát, cùng chúng Tỳkheo tuần tự trước sau đi đến nhà của đại tướng rồi ngồi theo thứ lớp.
Bấy giờ, thấy Phật và chúng Tỳ-kheo đã ngồi theo thứ lớp, Tướng quân Sư Tử liền đích thân cúng dường các thức ăn uống. Trong lúc đại tướng đang dâng thức ăn thì chư thiên ở giữa hư không bảo đại tướng rằng:
– Vị này là A-la-hán, vị kia là hướng A-la-hán, cúng dường vị này thì được phước nhiều, cúng dường vị kia thì được phước ít. Vị này là A-na-hàm, vị này là hướng A-na-hàm. Vị này là Tư-đà-hàm, vị kia là hướng Tư-đà-hàm. Vị này là Tu-đà-hoàn, vị kia là hướng Tu-đà-hoàn. Vị này còn trở lại bảy lần nữa, vị này còn trở lại một lần. Vị này là bậc Tùy tín hành,41 vị này là bậc Tùy pháp hành.42 Đây là hạng căn tánh lanh lợi, đây là hạng căn tánh chậm lụt. Người này là hạng hạ liệt, người này tinh tấn trì giới, người này phạm giới, cúng người này thì được phước nhiều, cúng người này thì được phước ít.
Bấy giờ, nghe chư thiên nói như vậy rồi, nhưng Đại tướng Sư Tử cũng chẳng lưu tâm. Thấy Như Lai thọ trai xong, đại tướng liền thu dọn bát rồi lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Như Lai.
Lúc ấy, Đại tướng Sư Tử bạch Thế Tôn:
– Vừa rồi, có chư thiên đến chỗ con và nói rằng: “Từ bậc A-la-hán,... cho đến người phạm giới”, đều thưa đầy đủ với Phật. Mặc dù nghe những lời như thế, nhưng con cũng chẳng lưu tâm và cũng chẳng nghĩ rằng: “Ta sẽ bỏ người này cúng dường người kia, bỏ người kia để cúng dường người này.” Tuy nhiên, con lại nghĩ như vầy: “Nên cúng dường tất cả chúng sanh, vì những loài có hình dáng đều nhờ ăn mới tồn tại, không ăn thì sẽ chết.” Đích thân con được nghe bài kệ ấy do Như Lai nói, thường ghi nhớ trong lòng và không hề quên mất. Bài kệ ấy như vầy:
Thí bình đẳng khắp cả,
Không trái ý thí riêng,
Chắc sẽ gặp Thánh hiền,
Nhờ đây mà được độ.
Bạch đức Thế Tôn! Bài kệ Ngài đã nói là như thế. Đích thân con được nghe từ Như Lai, thường ghi nhớ phụng hành.
Phật bảo đại tướng:
– Lành thay! Ðây gọi là bố thí với tâm bình đẳng của Bồ-tát. Lúc Bồ-tát bố thí thì cũng không nghĩ như vầy: “Ta sẽ bố thí cho người này và không bố thí người kia”, mà thường bố thí với tâm bình đẳng; cũng lại nghĩ như vầy: “Tất cả chúng sanh đều nhờ thức ăn mà tồn tại, không ăn thì sẽ chết.” Lúc Bồ-tát hành bố thí, cũng tư duy về nghĩa này.
Thế Tôn liền nói kệ này:
Người tu tập hạnh này,
Làm lành hay tạo ác,
Đều tự nhận quả báo,
Hạnh nghiệp chẳng suy hao.
Nếu người tạo nghiệp này,
Chịu quả báo như vậy,
Làm lành gặp quả lành,
Làm ác nhận quả ác.
Tạo ác hay hành thiện,
Tùy theo người thực hành,
Như gieo năm giống thóc,
Gặt quả đúng như thế.
[0826c07] Này Đại tướng Sư Tử! Nhờ vào điều này nên biết việc thiện hay việc ác thảy đều do sự tạo tác. Vì sao như thế? Vì từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành đạo, tâm của Như Lai không hề tăng giảm, không chọn lựa người, cũng chẳng suy xét địa vị của họ. Cho nên, này Sư Tử! Nếu lúc nào muốn bố thí thì hãy thường nghĩ đến sự bình đẳng, chớ khởi tâm đúng sai.
Thật vậy, này Sư Tử! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ bố thí:
Thí hoan hỷ, người mến,
Ai cũng đều ngợi khen,
Nơi đến không nghi lầm,
Tâm chẳng còn ganh ghét.
Do vậy, người trí thí,
Rũ sạch tưởng xấu xa,
Cõi thiện mãi là nhà,
Chốn chư thiên hoan hỷ.
Khi nói bài kệ này xong, Thế Tôn liền đứng dậy ra về.
Bấy giờ, Đại tướng Sư Tử nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
***
7. VUA BA-TƯ-NẶC BỐ THÍ43
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên.
Thế rồi, nhà vua bạch Thế Tôn:
– Bạch đức Thế Tôn! Là người bố thí thì nên bố thí nơi nào?
Thế Tôn bảo nhà vua:
– Tùy theo tâm hoan hỷ nơi nào thì bố thí ở nơi ấy.
Vua lại bạch Phật:
– Bố thí ở nơi nào thì được công đức lớn?
Phật bảo nhà vua:
– Lúc nãy, Đại vương đã hỏi nên bố thí nơi nào, nay lại hỏi được phước và công đức.
Vua bạch Phật:
– Nay con thưa hỏi Như Lai là bố thí nơi nào thì được công đức?
Phật bảo nhà vua:
– Nay Ta sẽ hỏi lại, Đại vương hãy tùy theo sở thích mà trả lời Ta. Thế nào, này Đại vương! Nếu có hàng Sát-lợi hoặc hàng Bà-la-môn nhưng lại ngu si chẳng biết điều gì, tâm ý tán loạn, thường không định tĩnh, rồi đến chỗ nhà vua tâu rằng: “Chúng tôi sẽ cung phụng Thánh vương, tùy thời ngài cần đến.” Thế nào, này Đại vương! Ngài có cần người này làm hầu cận chăng?
[0827a02] Nhà vua bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Con không cần người ấy. Vì sao như thế? Do vì người ấy không có trí tuệ, tâm thức không định, không thể đảm trách việc đối phó với kẻ địch đến từ bên ngoài.
Phật bảo nhà vua:
– Thế nào, này Đại vương! Nếu có hàng Sát-lợi hoặc hàng Bà-la-môn có nhiều phương kế, không ngại gian khó, cũng chẳng sợ hãi, có thể chống trả kẻ địch bên ngoài, họ đến chỗ Đại vương và tâu rằng: “Chúng tôi sẽ tùy thời cung phụng Thánh vương, cúi xin ngài rủ lòng ban ân mà thâu nhận!” Thế nào, này Đại vương! Ngài có thâu nhận người ấy chăng?
Nhà vua bạch Phật:
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con sẽ thu nhận người ấy. Vì sao như thế? Vì người ấy có thể đối phó với kẻ địch bên ngoài, chẳng nề gian khó cũng chẳng kinh sợ.
Phật bảo nhà vua:
– Tỳ-kheo cũng lại như thế, các căn đầy đủ, xả bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một và hàng phục bốn. Bố thí cho những người này sẽ được phước rất nhiều.
Vua bạch Phật:
– Thế nào gọi là Tỳ-kheo xả bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một và hàng phục bốn?
Phật bảo nhà vua:
– Đó là, Tỳ-kheo xả bỏ năm thứ ngăn che, gồm tham dục, sân hận, thụy miên, trạo cử và nghi. Như thế gọi là Tỳ-kheo xả bỏ năm.
Thế nào là Tỳ-kheo thành tựu sáu? Ðại vương nên biết, nếu Tỳ-kheo thấy sắc rồi không dính mắc vào sắc tưởng, nương vào đây mà giữ gìn nhãn căn; trừ bỏ niệm xấu ác, bất thiện mà giữ gìn nhãn căn. Cho đến tai, mũi, miệng, thân và ý không dính mắc vào ý thức mà giữ gìn ý căn. Như thế gọi là Tỳ-kheo thành tựu sáu.
Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì một? Đó là, khi Tỳ-kheo buộc niệm ở trước mặt. Như thế gọi là Tỳ-kheo hộ trì một.
Thế nào là Tỳ-kheo hàng phục bốn? Đó là, khi Tỳ-kheo hàng phục hết thảy bốn ma, là ma chấp ngã, ma tham dục, ma chết và Ma Ba-tuần. Như thế gọi là Tỳ-kheo hàng phục bốn.
Này Đại vương! Đó gọi là xả bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một và hàng phục bốn. Bố thí cho người như thế thì được phước khó tính kể. Này Đại vương! Những người liên hệ với tà kiến và biên kiến, nếu bố thí cho những người như thế thật là vô ích.
Lúc ấy, nhà vua bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Bố thí cho người như thế thì được phước khó tính kể. Nếu Tỳ-kheo chỉ thành tựu một pháp thì phước ấy còn khó tính kể, huống hồ là thành tựu những pháp khác. Thế nào gọi là một pháp? Đó chính là pháp niệm thân. Vì sao như thế? Vì Ni-kiền tử thường chú trọng vào nghiệp của thân và nghiệp của ý mà không chú trọng vào nghiệp của miệng.
Phật bảo nhà vua:
– Ni-kiền tử ngu si, ý thường tán loạn, tâm thức không định. Ðây là pháp của thầy họ cho nên họ nói như thế. Họ phải chịu quả báo về nghiệp của thân, quả báo về nghiệp của miệng, còn nghiệp của ý thì không có hình tướng nên không thể thấy.
[0827b02] Vua bạch Phật:
– Trong ba nghiệp này thì nghiệp nào quan trọng nhất? Là nghiệp của thân? Nghiệp của miệng? Hay nghiệp của ý?
Phật bảo nhà vua:
– Trong ba nghiệp này thì nghiệp của ý quan trọng nhất, còn nghiệp của miệng và nghiệp của thân thì không đáng kể.
Vua bạch Phật:
– Do nhân duyên gì mà cho rằng ý suy nghĩ là quan trọng bậc nhất?
Phật bảo nhà vua:
– Sự tạo tác của con người trước hết phải do ý suy nghĩ, sau đó mới phát khởi ra miệng, đã phát khởi ra miệng rồi thì thân mới thực hành các việc như giết hại, trộm cướp, tà dâm. Thiệt căn không cố định, cũng chẳng có đầu mối. Giả sử người kia chết, nhưng thân căn và thiệt căn vẫn còn tồn tại, này Đại vương, vì sao thân và miệng của người kia không thể làm được gì?
Vua bạch Phật:
– Do vì ý căn của người kia đã bị biến đổi nên mới như thế.
Phật bảo nhà vua:
– Do đây nên biết, ý căn quan trọng bậc nhất, hai căn kia ít quan trọng hơn.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Tâm là gốc các pháp,
Tâm làm chủ, sai khiến,
Tâm suy nghĩ việc ác,
Liền hành động tạo tác,
Vì thế khổ theo liền,
Như vết theo bánh lăn.
Tâm là gốc các pháp,
Tâm làm chủ, sai khiến,
Trong tâm nghĩ điều lành,
Liền hành động, tạo tác,
Thọ nhận quả thiện lành,
Như bóng theo hình vậy.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
– Ðúng thế, bạch đức Thế Tôn! Gọi là người ác thì thân làm việc ác, tùy theo nghiệp mà đọa vào đường ác.
Phật hỏi nhà vua:
– Ðại vương quán sát những nghĩa gì mà đến hỏi Như Lai rằng, bố thí cho người nào thì được phước đức nhiều?
Vua bạch Phật:
– Thuở xưa, con đến chỗ Ni-kiền tử rồi hỏi Ni-kiền tử rằng: “Nên bố thí nơi nào?” Nghe con hỏi như thế, Ni-kiền tử lại bàn sang việc khác, cũng không trả lời cho con. Lúc ấy, Ni-kiền tử bảo con: “Sa-môn Cù-đàm nói như vầy: ‘Bố thí cho Ta thì được phước nhiều, bố thí cho người khác thì không được phước. Nên bố thí cho đệ tử của Ta, không nên bố thí cho người khác. Người nào bố thí cho đệ tử của Ta thì phước ấy không thể tính kể.’”
Phật bảo nhà vua:
– Thế rồi, Đại vương đã trả lời thế nào?
Nhà vua bạch Phật:
– Lúc ấy, con liền nghĩ như vầy: “Có thể như thế, bố thí cho Như Lai thì phước ấy khó tính kể.” Vì thế, hôm nay con mới thưa hỏi Phật: “Bố thí nơi nào thì được phước khó tính kể.” Tuy nhiên, Thế Tôn không tự khen ngợi mình cũng chẳng chê bai người khác.
Phật bảo nhà vua:
– Ta không hề nói rằng: “Bố thí cho Ta thì được phước nhiều, còn bố thí cho người khác thì không được phước.” Tuy nhiên, hôm nay Ta nói rằng: “Thức ăn còn lại trong bát mà đem cho người thì phước ấy khó tính kể.” Với tâm thanh tịnh, đem bỏ thức ăn vào trong nước sạch rồi khởi lên ý niệm rộng khắp: “Mong những loài hữu tình trong đây được nương nhờ ân vô lượng”, huống hồ là loài người. Thế nhưng, này Đại vương! Nay Ta nói rằng: “Bố thí cho người trì giới thì phước ấy khó đo lường, bố thí cho người phạm giới thì phước không đáng kể.”
[0827c06] Ðại vương nên biết! Như nhà nông khéo chăm bón ruộng đất, dọn sạch cỏ rác rồi đem giống lúa tốt gieo xuống ruộng màu mỡ, đến khi thu hoạch thì được nhiều vô kể. Nếu như nhà nông kia không chăm bón ruộng đất, không dọn sạch cỏ rác mà gieo giống thì về sau thu hoạch chẳng được bao nhiêu.
Tỳ-kheo cũng lại như thế. Nếu Tỳ-kheo xả bỏ năm, thành tựu sáu, giữ gìn một và hàng phục bốn, bố thí cho những người như thế sẽ được phước không thể tính kể, còn bố thí cho người tà kiến thì phước không đáng kể. Cũng như vậy, này Đại vương! Người chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc Bà-la-môn mà tâm không nghi ngại có thể hàng phục thù địch bên ngoài nên xem người này như bậc La-hán. Còn người chủng tộc Bà-la-môn kia với tâm không chuyên nhất, không định tĩnh thì nên xem như người tà kiến.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
– Bố thí cho người trì giới thì phước ấy khó tính kể. Từ nay về sau, nếu những người trì giới có đến cầu xin điều gì thì con không bao giờ trái ý. Nếu bốn bộ chúng có mong cầu điều gì thì con cũng không trái ý mà sẽ tùy thời cung cấp y phục, thực phẩm, giường nằm và tòa ngồi. Con cũng bố thí cho những người Phạm hạnh.
Phật bảo:
– Chớ nói như thế! Vì sao như vậy? Bố thí cho loài súc sanh, phước ấy còn khó tính kể, huống hồ là bố thí cho người. Tuy nhiên, nay Ta nói rằng, bố thí cho người trì giới thì được phước khó tính kể, chẳng phải là người phạm giới.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
– Nay con xin được quy y thêm lần nữa! Ðức Thế Tôn quá đỗi lân mẫn, dù cho ngoại đạo dị học phỉ báng Thế Tôn đến thế, song Thế Tôn vẫn thường khen ngợi họ. Ngoại đạo dị học tham đắm lợi dưỡng nhưng Như Lai chẳng hề tham đắm lợi dưỡng. Việc nước đa đoan, con muốn trở về.
Phật bảo nhà vua:
– Nay thật đúng lúc!
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
***
8. NGHIỆP BÁO44
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, sau khi giết một trăm người em khác mẹ, Vua Ba-tư-nặc liền đau buồn, hối hận:
– Ta đã tạo ra gốc rễ tội ác quá đỗi sâu dày, sao lại hành động như thế? Do vì ngôi vua mà giết hại cả trăm người. Ai có thể dứt trừ nỗi lo buồn cho ta?
Vua Ba-tư-nặc lại nghĩ như vầy: “Chỉ có đức Thế Tôn mới có thể dứt trừ nỗi lo buồn của ta.” Lúc ấy, vua lại nghĩ: “Ta không nên ôm nỗi lo buồn này, cứ im lặng đến chỗ Thế Tôn, nên đến chỗ Thế Tôn với uy nghi của một bậc vua chúa.”
Thế rồi, Vua Ba-tư-nặc bảo quần thần: – Các khanh hãy mau chuẩn bị xe lông chim quý,45 như pháp của các bậc tiên vương! Trẫm muốn ra khỏi thành Xá-vệ để đến thỉnh an đức Thế Tôn.
[0828a07] Tuân lệnh vua, quần thần lập tức trang nghiêm xa giá bằng lông chim quý rồi đến tâu vua:
– Xa giá đã chuẩn bị xong, xin Bệ hạ đi cho kịp lúc!
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc liền ngự trên xe gắn lông chim quý, khua chuông gióng trống, treo phan kết lọng, tùy tùng đều mặc giáp sắt, mang binh khí, quần thần tuần tự trước sau, ra khỏi thành Xá-vệ, đi đến vườn Kỳ Hoàn rồi đi bộ vào tinh xá. Theo phép của các tiên vương, nhà vua cởi bỏ hết năm nghi trượng như: Lọng, mũ, quạt, kiếm và giày. Vua đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân, lại lấy tay sờ bàn chân Như Lai rồi tự giãi bày:
– Nay con xin sám hối lỗi lầm, nguyện sửa đổi lỗi cũ, tu tập trong tương lai, do ngu si không phân biệt được đúng sai, chỉ vì thế lực ngôi vua nên con đã giết hại cả trăm người em khác mẹ. Từ nay trở đi, con xin sám hối, cúi xin Ngài chấp thuận cho con!
Phật bảo nhà vua:
– Lành thay, Đại vương! Hãy trở về chỗ ngồi, Như Lai sẽ thuyết pháp. Vua Ba-tư-nặc liền đứng dậy đảnh lễ sát chân Thế Tôn rồi trở về chỗ ngồi.
Phật bảo nhà vua:
– Mạng người rất mong manh, tuổi thọ dài nhất không quá trăm năm, tính ra chẳng được bao nhiêu người. Thọ mạng trăm năm ở cõi người chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Ba Mươi Ba, tính theo ngày đêm cõi ấy, cứ ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Thọ mạng cõi trời Ba Mươi Ba là một ngàn năm thì tuổi thọ ở cõi người là mười vạn năm.
Lại tính một ngày một đêm ở địa ngục Hoàn Hoạt. Tính theo ngày đêm ở đó, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ trong địa ngục Hoàn Hoạt là năm ngàn năm, hoặc thọ nửa kiếp, hoặc thọ một kiếp tùy theo hạnh nghiệp của mỗi người, hoặc có khi chết yểu giữa chừng, tính theo tuổi thọ cõi người là mười tỷ năm.
Người trí thường suy nghĩ để tu tập đầy đủ hạnh này, sao lại còn tạo ác để làm gì? Vui ít, khổ nhiều, tai ương không thể tính kể. Thế nên, này Đại vương! Chớ vì bản thân cho đến cha mẹ, vợ con, cõi nước, dân chúng mà tạo nghiệp tội lỗi, cũng chớ vì mình làm vua mà tạo ra gốc rễ tội lỗi. Cũng như đường phèn, ban đầu thì ngọt nhưng lại đắng về sau, điều này cũng như thế. Ở trong chốn thọ mạng ngắn ngủi, còn tạo việc ác để làm gì?
Ðại vương nên biết! Có bốn điều sợ hãi lớn thường bức ngặt thân người, không thể nào khắc phục, cũng chẳng thể dùng chú thuật, chiến tranh hay thuốc men để có thể đánh bại, đó là sanh, già, bệnh và chết. Giống như bốn ngọn núi lớn đến từ bốn phía, ép vào cùng lúc làm gãy đổ cây cối và hủy diệt tất cả. Bốn điều này cũng lại như thế. Ðại vương nên biết! Lúc sanh ra thì khiến cho cha mẹ lo lắng, buồn rầu, khổ não xiết bao. Khi già đến thì không còn trai tráng, thân thể bại hoại, gân cốt rã rời. Khi bệnh đến, dù lúc tuổi trẻ nhưng chẳng còn sức lực, mạng sống rút ngắn dần. Khi cái chết đến thì chấm dứt mạng căn, ân ái chia lìa, năm ấm tan rã. Này Đại vương! Ðó gọi là do có bốn việc lớn nên không thể nào được tự tại.
[0828b10] Nếu người nào thường giết hại chúng sanh thì phải thọ nhận các điều xấu ác, nếu sanh trong loài người thì thọ mạng cực ngắn.
Nếu người nào thực hành việc trộm cướp thì về sau sanh vào chốn bần cùng khốn khổ, áo không đủ che thân, cơm ăn không đầy miệng. Vì sao như thế? Do vì lấy tài vật của người khác cho nên phải chịu tai ương như thế. Nếu được sanh làm người thì phải chịu khổ không thể tính kể.
Nếu người nào tà dâm với vợ người khác, về sau được sanh làm người thì gặp phải người vợ không hiền lành và chẳng trinh khiết.
Nếu người nào nói dối, về sau được sanh làm người thì lời nói không ai tin, bị người khinh miệt. Đó là do đời trước lừa dối, nói lời không chân thật.
Nếu người nào nói lời thô ác thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì dung mạo xấu xí. Đó là do đời trước nói lời thô ác nên phải chịu quả báo như thế.
Nếu người nào nói lời thêu dệt thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì gặp phải gia đình bất hòa, thường xuyên gây gổ. Vì sao như thế? Do vì đời trước tự mình đã tạo ra quả báo ấy.
Nếu người nào nói hai chiều, gây rối loạn đôi bên thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì gặp gia đình bất hòa, thường xuyên tranh cãi. Vì sao như thế? Do vì đời trước gây chia rẽ đôi bên nên phải chịu quả báo như thế.
Nếu người nào ưa ganh ghét người khác thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì bị người ghét bỏ. Đó là do gốc rễ của nghiệp đời trước nên phải chịu quả báo như thế.
Nếu người nào khởi tâm mưu hại thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì tâm không chuyên nhất và không định tĩnh. Vì sao như thế? Do vì đời trước khởi tâm mưu hại nên phải như thế.
Nếu người nào thực hành tà kiến thì phải chịu tội nơi địa ngục, nếu được sanh làm người thì bị điếc, mù, câm, ngọng, chẳng ai muốn nhìn. Sở dĩ như vậy vì do nguyên nhân của hành động đời trước nên dẫn đến như thế.
Thế nên, này Đại vương! Do quả báo của mười điều ác này mà dẫn đến tai ương, phải chịu vô lượng đau khổ, huống hồ là ngoài những điều này.
Cho nên, này Đại vương! Nên dùng pháp để cai trị, chớ dùng phi pháp, nên dùng đạo lý để trị dân, chớ dùng phi lý. Này Đại vương! Những ai dùng Chánh pháp để trị dân, khi thọ mạng hết, đều được sanh lên cõi trời. Giả sử sau khi Đại vương qua đời, dân chúng thảy đều tưởng nhớ, không thể nào quên, danh tiếng vang xa.
[0828c05] Ðại vương nên biết! Những ai dùng phi pháp để trị dân, sau khi qua đời đều bị đọa vào địa ngục. Khi ấy, cai ngục trói chặt toàn thân, phải chịu khổ trong ấy không thể tính kể: Hoặc bị đánh, hoặc bị trói, hoặc bị giã nát, hoặc bị cắt xẻo từng phần cơ thể, hoặc bị lửa thiêu đốt, hoặc bị rót nước đồng sôi trên thân, hoặc bị lột da, hoặc bị mổ bụng, hoặc bị rút lưỡi, hoặc đâm vào thân, hoặc bị cưa xẻ thân, hoặc bị giã trong cối sắt, hoặc cho bánh xe cán nát thân, hoặc đuổi chạy trên núi dao, rừng kiếm, không cho ngừng nghỉ. Hoặc bắt ôm cột đồng nóng bỏng, hoặc bị móc mắt, hoặc bị chọc thủng tai, bị chặt đứt tay chân, tai, mũi, đã đứt rồi mọc trở lại. Hoặc ném thân hình vào trong vạc lớn, lại bị chĩa sắt xóc quay thân thể, không cho ngừng nghỉ. Hoặc lôi từ vạc ra, rồi bị rút gân xương sống làm dây buộc xe, lại bắt vào trong địa ngục Lửa Nóng, hoặc bắt vào địa ngục Phẩn Nóng, lại bắt vào địa ngục Đâm Chém, lại bắt vào địa ngục Tro Than, lại bắt vào địa ngục Cây Đao, lại bị bắt nằm ngửa rồi lấy hòn sắt nóng bắt nuốt, rơi từ trên xuống khiến ruột, dạ dày, ngũ tạng thảy đều tiêu tán, lại bị rót nước đồng sôi vào miệng, chảy từ trên xuống, phải chịu đau đớn, khổ sở cho đến khi hết tội sau đó mới được thoát ra khỏi đó.
Như thế, này Đại vương! Chúng sanh bị đọa vào địa ngục và thọ khổ như thế, đều do đời trước cai trị bằng pháp bất chánh mà ra.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Một đời quen phóng túng,
Đọa địa ngục về sau,
Lòng tham làm sao đủ,
Chịu tội nhiều xiết bao.
Này Đại vương! Dùng pháp để cai trị thì tự cứu bản thân mình và cha mẹ, vợ con, nô tỳ, thân tộc và chăm lo việc nước. Cho nên, này Đại vương! Hãy luôn luôn cai trị đúng pháp, chớ dùng phi pháp để cai trị. Mạng người rất ngắn, sống ở đời chỉ trong chốc lát mà thôi, sanh tử thì lâu dài, rất nhiều nạn đáng sợ. Khi cái chết đến thì kêu gào, khóc lóc, gân cốt rã rời, thân thể lạnh cóng. Bấy giờ, chẳng ai cứu giúp, ngay cả cha mẹ, vợ con, nô tỳ, hầu cận, cõi nước hay nhân dân, chẳng ai có thể cứu giúp. Với những hoạn nạn như vầy thì ai có thể gánh thay được? Chỉ có bố thí, trì giới, thường nói lời hòa nhã, không tổn thương người, tạo lập các công đức, thực hành các gốc rễ thiện lành.
[0829a06] Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Người trí thường bố thí,
Ðược chư Phật ngợi khen,
Nhờ thế, tâm thanh tịnh,
Tâm ý thường siêng năng.
Cái chết làm bức ngặt,
Chịu khổ sở vô cùng,
Rơi vào con đường ác,
Khổ không lúc nào ngưng.
Khi sự chết sắp đến,
Chịu khổ não vô biên,
Căn hoại lẽ đương nhiên,
Do ác không ngừng nghỉ.
Hoặc khi thầy thuốc đến,
Thảo dược gom bao lần,
Đâu chữa khắp được thân,
Do ác không ngừng nghỉ.
Hoặc người thân thích đến,
Hỏi vốn liếng tiền tài,
Tiếng nào có lọt tai,
Do ác không ngừng nghỉ.
Hoặc di dời xuống đất,
Người bệnh nằm biết chi,
Thân như gốc cây khô,
Do ác không ngừng nghỉ.
Hoặc lúc đã tắt thở,
Thức đã lìa thân đi,
Thân như vật bỏ đi,
Do ác không ngừng nghỉ.
Thân quyến tử thi ấy,
Khiêng ra bãi tha ma,
Chẳng còn ai nhờ cậy,
Chỉ còn phước nương nhờ.
Cho nên, này Đại vương! Hãy tìm cầu phương tiện để tạo lập phước nghiệp, nếu hôm nay không làm, ngày sau hối tiếc cũng vô ích.
Lúc ấy, Thế Tôn liền nói kệ này:
Như Lai do phước lực,
Hàng phục quyến thuộc ma,
Nay thành tựu Phật lực,
Nên phước lực tối tôn.
Cho nên, này Đại vương! Hãy nhớ nghĩ làm việc phước, điều ác đã làm thì nên sám hối, chớ có tái phạm.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Tuy tạo ác ngập tràn,
Sám hối tội dần tan,
Ngay khi ở thế gian,
Gốc rễ đều tiêu tán.
[0829b03] Cho nên, này Đại vương! Chớ vì bản thân mình mà làm các việc ác. Chớ vì cha mẹ, vợ con, Sa-môn hay Bà-la-môn mà làm các việc ác, tập tành theo hạnh ác.
Thật vậy, này Đại vương! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Dẫu anh em, cha mẹ,
Dòng tộc, người thân thương,
Ai tránh được tai ương,
Gặp vô thường, bỏ hết.
Cho nên, này Đại vương! Từ nay trở về sau nên trị dân bằng Chánh pháp, chớ sử dụng phi pháp.
Thật vậy, này Đại vương! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong giấc chiêm bao, Vua Ba-tư-nặc mộng thấy mười điều nên liền tỉnh giấc rồi vô cùng sợ hãi, lo sợ mất nước, sợ mất thân mạng, thê thiếp và con cái.
Sáng hôm sau, nhà vua liền triệu tập các công khanh, đại thần, các Bà-lamôn và các đạo sĩ có trí tuệ để có thể giải điềm mộng. Vân tập đông đủ rồi, nhà vua liền kể lại mười điều mộng rồi hỏi ai có thể giải được.
Có vị Bà-la-môn tâu:
– Hạ thần có thể giải được, chỉ sợ Đại vương nghe rồi sẽ không vui.
Vua bảo:
– Khanh cứ nói!
Bà-la-môn tâu:
– Đại vương sẽ mất nước, mất cả thái tử và thê thiếp.
Vua hỏi:
– Này các khanh! Có thể tế lễ để giải trừ được chăng?
Bà-la-môn tâu:
– Việc này có thể tế lễ giải trừ được, nhưng phải giết thái tử, giết luôn vị đại phu nhân mà Đại vương yêu quý nhất và cả những người hầu cận, tùy tùng, nô bộc và Đại thần quý trọng nhất để dâng lên cúng tế Thiên vương. Có bao nhiêu giường nằm, tòa ngồi và báu vật quý giá đều phải đem ra đốt hết để tế trời. Như thế mới tiêu trừ hết tai nạn của Đại vương và của quốc gia.
Nghe lời tâu của Bà-la-môn, nhà vua hết sức lo buồn, liền trở về ngôi nhà trai giới47 để suy nghĩ về việc này.
Phu nhân của vua tên là Mạt-lợi liền đến chỗ vua để vấn an:
– Cớ sao Đại vương lo buồn, không vui? Thần thiếp có lỗi gì với Bệ hạ chăng?
Vua đáp:
– Khanh không có lỗi với ta, nhưng chớ hỏi về việc này, nếu nghe xong sẽ khiến khanh lo sợ.
Phu nhân tâu vua:
– Thiếp chẳng hề lo sợ!
Vua bảo:
– Khanh chớ nên hỏi, nghe rồi sẽ lo sợ!
Phu nhân tâu:
– Thiếp là một nửa thân mình của Đại vương, như có điều gì cấp bách mà phải giết một người thì chính là thiếp, Đại vương an tâm, không gì phải lo sợ, xin Đại vương cứ nói cho thiếp.
[0829c01] Vua liền nói với phu nhân:
– Đêm qua, trẫm mộng thấy mười việc: Một là, thấy ba cái vạc, hai cái vạc hai bên thì đầy, vạc ở giữa lại rỗng không, hai vạc hai bên nước sôi, hơi bốc giao nhau, nhưng không bay vào vạc trống ở giữa. Hai là, thấy con ngựa miệng cũng ăn mà hậu môn cũng ăn. Ba là, mộng thấy cây cổ thụ ra hoa. Bốn là, mộng thấy cây con ra trái. Năm là, mộng thấy một người nắm sợi dây, đằng sau có con dê, chủ dê ăn sợi dây. Sáu là, thấy con chồn ngồi trên ghế vàng ăn bằng bát vàng. Bảy là, mộng thấy bò già lại bú nghé con. Tám là, mộng thấy bầy bò hung bạo từ bốn phía rống lên, chạy đến chực chờ húc nhau, bò đã tụ đàn và chưa tụ đàn đều không biết từ đâu xuất hiện. Chín là, mộng thấy một đầm nước lớn, nước ở giữa vẩn đục, bốn phía thì nước trong. Mười là, mộng thấy khe nước lớn, nước dậy sóng màu đỏ.
Mộng như thế rồi nên tỉnh giấc, trẫm rất kinh hãi, lo sợ mất nước, sợ mất thân mạng, vợ con và dân chúng. Nay trẫm triệu tập các công khanh, đại thần, đạo sĩ, Bà-la-môn để có thể giải mộng. Lúc đó, có một Bà-la-môn tâu rằng: “Phải giết vương thái tử, giết phu nhân yêu quý và cả đại thần, tôi tớ để tế trời.” Do vậy, trẫm mới lo buồn như thế.
Phu nhân thưa:
– Tâu Đại vương! Ngài chớ lo buồn về giấc mộng. Như người đi mua vàng, phải lấy lửa đốt thử hay đem mài vào đá thì xấu tốt tự hiện ra. Hiện nay, đức Thế Tôn đang ngụ tại tinh xá Kỳ Hoàn gần đây, Đại vương có thể đến đó để thưa hỏi Phật. Đức Phật có giải thích điều gì thì Đại vương nên nghe theo lời Phật dạy, tại sao lại nghe lời Bà-la-môn cuồng si ấy mà buồn khổ đến như vậy?
Vua chợt tỉnh ngộ, liền triệu tập quần thần hầu cận, nhanh chóng chuẩn bị xa giá. Vua ngự trên xe che lọng cao, tùy tùng cỡi ngựa theo cả ngàn vạn người rồi ra khỏi thành Xá-vệ đi đến tinh xá Kỳ Hoàn. Ðến nơi, vua đi bộ đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân rồi quỳ gối chắp tay trước Phật, thưa:
– Bạch đức Thế Tôn! Ðêm qua, con chiêm bao thấy mười việc, cúi xin đức Thế Tôn thương xót mà giải thích từng việc cho con!
Phật bảo nhà vua:
– Lành thay! Ðại vương! Những điều nhà vua chiêm bao chính là điềm báo cho tương lai ở đời sau. Ðời sau, dân chúng không còn sợ vào pháp luật, sẽ làm nhiều việc như dâm dật, tham chấp nơi vợ con, buông lung tình tứ không hề biết đủ, ganh ghét, ngu si, chẳng biết xấu hổ cũng không biết e thẹn, bỏ điều trinh khiết, lấy dua nịnh làm loạn quốc gia.
Vua mộng thấy ba cái vạc, vạc hai bên đầy, vạc chính giữa rỗng không, hai vạc hai bên nước sôi, hơi nước bốc lên giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa, nghĩa là đời sau dân chúng không cấp dưỡng cho người thân thích nghèo khổ, không gần gũi bà con mà kết bạn với người dưng, qua lại với kẻ giàu sang, biếu tặng lẫn nhau. Điều thứ nhất nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
[0830a02] Vua thấy con ngựa, miệng ăn và hậu môn cũng ăn, nghĩa là đời sau dân chúng, đại thần, bá quan, sứ giả, công khanh, đã ăn lộc của vua lại còn ăn của dân, thu thuế liên tục, quan lại cấp dưới thì gian trá, dân chúng bất an, không được yên ổn ngay cả chốn quê nhà. Điều thứ hai nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua thấy cây cổ thụ trổ hoa, nghĩa là đời sau, dân chúng đa phần bị sưu dịch, tâm ý rầu lo, thường xuyên sợ hãi, tuổi mới ba mươi mà đầu tóc đã bạc trắng. Điều thứ ba nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy cây con ra trái, nghĩa là đời sau, thiếu nữ chưa đầy mười lăm tuổi đã mong lấy chồng, bế con trở về mà không biết hổ thẹn. Điều thứ tư nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy một người nắm sợi dây, sau đó có con dê, người chủ dê ăn sợi dây, nghĩa là đời sau, lúc người chồng đi buôn bán hoặc vào quân ngũ, hay ngao du khắp chốn, giao kết bạn bè mà không hay biết người vợ ở nhà tư thông với đàn ông, ăn ngủ trên tài sản của chồng, tánh tình buông lung không chút hổ thẹn. Người chồng biết vậy nhưng cứ giả ngây. Điều thứ năm nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy con chồn ngồi trên ghế vàng, ăn bát bằng vàng, nghĩa là đời sau, kẻ hạ tiện sẽ được quý trọng, được ngồi ghế vàng, ăn thức ăn hảo hạng, hàng quý tộc danh giá sẽ là hạng tôi tớ, ông chủ sẽ làm nô tỳ, nô tỳ sẽ làm chủ nhân. Điều thứ sáu nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy bò già lại bú nghé con, nghĩa là đời sau, người mẹ sẽ làm mai mối cho con gái, dẫn đàn ông khác vào phòng rồi mẹ đứng canh ngoài cửa, nhờ đó mà có được tài vật dùng để sinh sống, người cha cũng đồng tình, giả điếc, giả ngu. Điều thứ bảy nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy bầy bò hung bạo từ bốn phía kéo đến, cùng kêu rống muốn húc nhau, đã tụ đàn hay chưa tụ đàn đều không biết từ đâu xuất hiện, nghĩa là người đời sau, từ quốc vương, đại thần, trưởng giả cho đến dân chúng đều không sợ pháp luật, ham thích dâm dục, tích chứa tài sản, vợ con lớn nhỏ đều không liêm khiết, đắm trước tà dâm chưa từng chán bỏ, ganh ghét, ngu si, không biết xấu hổ, không làm người trung hiếu lại dua nịnh, phá hoại quốc gia, không kính trên nhường dưới, mưa chẳng đúng thời, khí hậu không điều hòa, gió bụi trỗi dậy, cát bay cây gãy, sâu rầy cắn lúa khiến không thể chín. Vua chúa, dân chúng thảy đều thực hành như thế nên trời khiến như vậy. Lại nữa, mây giăng bốn phía, vua và dân chúng thảy đều mừng rỡ, bảo rằng: “Mây giăng bốn phía, nay chắc sẽ mưa.” Nhưng chỉ trong chốc lát, tự nhiên mây tan, hiện ra những điềm quái dị này là muốn cho dân chúng sửa đổi hành vi, giữ gìn điều lành, trì giới, do kinh sợ trời đất mà không rơi vào đường ác, giữ gìn trinh lương, một vợ một chồng, tâm từ không sân hận. Điều thứ tám nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
[0830b06] Vua mộng thấy đầm nước lớn, chính giữa nước đục, bốn phía nước trong, nghĩa là đời sau, dân chúng trong cõi Diêm-phù-đề, bề tôi thì bất trung, con cái thì bất hiếu, không kính trọng bậc trưởng thượng, không tin Phật đạo, không cung kính bậc Đạo sĩ thông suốt kinh điển, kẻ bề tôi tham lam chức tước, con cái tham tài vật của cha, chẳng biết ơn nghĩa, không đoái hoài nghĩa lý. Còn những nước ở nơi biên địa thì biết trung hiếu, tôn kính bậc trưởng thượng, tin sâu Phật đạo, cấp dưỡng cho bậc Đạo sĩ thông suốt kinh điển, nhớ biết đền ơn. Điều thứ chín nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Vua mộng thấy nước khe lớn dậy sóng màu đỏ, nghĩa là đời sau, các đế vương, quốc vương không biết đủ với đất nước của mình nên dấy binh đánh nhau, chế tạo chiến xa, binh mã, hai bên công phạt, giết hại lẫn nhau, máu đỏ chảy tràn. Điều thứ mười nhà vua thấy trong giấc chiêm bao chính là như vậy.
Tất cả đều là những việc của đời sau. Người đời sau, nếu ai chú tâm vào Phật đạo, phụng sự bậc Đạo nhân thông suốt kinh điển, sau khi qua đời đều được sanh lên cõi trời. Nếu tạo nghiệp ngu si lại tàn hại lẫn nhau thì sau khi chết đi sẽ bị đọa vào trong ba đường ác, không thể kể hết.
Vua liền quỳ gối chắp tay lắng nghe lời Phật dạy, trong tâm hoan hỷ, đạt được định, tuệ, không còn sợ hãi. Vua liền cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật. Trở về cung, vua ban thưởng cho phu nhân và phong làm chánh hậu, cấp cho nhiều tài vật, châu báu để bố thí cho mọi người, trong nước giàu có, yên vui. Vua tước hết bổng lộc của công khanh, đại thần, các Bà-la-môn rồi đuổi ra khỏi nước, không tin dùng nữa. Tất cả dân chúng đều phát tâm Vô thượng Chánh chân.
Vua và phu nhân lễ Phật rồi ra về.48
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.49
***
Chú thích
1 Nguyên tác: Đại Ái Đạo Bát-niết-bàn phẩm 大愛道般涅槃品 (T.02. 0125.52. 0821b25).
2 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.1. 0821b26). Tham chiếu: Đại Ái Đạo Bát-nêhoàn kinh 大愛道般泥洹經 (T.02. 0144. 0867a21); Phật mẫu Bát-nê-hoàn kinh 佛母般泥洹經 (T.02. 0145. 0869b11).
3 Phổ Hội giảng đường (普會講堂). SĀ. 81 gọi là Trùng Các giảng đường (重閣講堂). S. 22.60 - III. 68: Kūṭāgārasālā (giảng đường có nóc nhọn).
4 Cao Đài tự (高臺寺), có lẽ là ngôi miếu Cāpāla, cách không xa Đại Lâm, nơi đức Phật an cư mùa mưa cuối cùng. Thánh tích này trong Cao Tăng Pháp Hiển truyện 高僧法顯傳 (T.51. 2085. 0861c18) ghi: Phóng Cung trượng (放弓仗).
5 Nguyên tác: Sa-la Song Thọ gian (娑羅雙樹間), còn gọi là Kiên Cố lâm, Sa-la lâm. Sāla nghĩa là Kiên Cố.
6 Nguyên tác: Câu-di-na-kiệt (拘夷那竭, S. Kuśinagara, P. Kusināra), cổ dịch viết Câu-thi-na-kiệt-la (拘尸那揭羅).
7 Nguyên tác: Vô vi (無為).
8 Nguyên tác: Vô vi Niết-bàn (無為涅槃).
9 Sai-ma (差摩, Khemā), Ưu-bát-sắc (優鉢色) còn gọi là Ưu-bát Hoa Sắc (優鉢華色, Uppalavannā); Cơ-lợi-thí (基利施) còn gọi là Cơ-lê-xá Cù-đàm-di (機梨舍瞿曇彌, Kisā Gotamī); Xá-cừu-lê (舍仇 梨, Sakulā); Xà-ma (奢摩, Somā); Bát-đà-lan-giá (鉢陀闌遮, Bhaddā Kuṇḍalakesā); Bà-la-giá-la (婆 羅遮羅, Paṭācārā); Ca-chiên-diên (迦旃延, Bhaddakaccānā); Xà-da (闍耶, Vijayā).
10 Nguyên tác: Bất dụng xứ (不用處).
11 Nguyên tác: Hữu tưởng vô tưởng xứ (有想無想處).
12 Nguyên tác: Tưởng tri diệt (想知滅).
13 Nguyên tác: Xá-cù-ly Tỳ-kheo-ni (舍瞿離比丘尼).
14 Nguyên tác: Trưởng giả (長者).
15 Nguyên tác: La-vân (羅云).
16 Nguyên tác: Duyệt xoa (閱叉, yakkha), một trong 8 bộ chúng thuộc sự cai quản của Tứ Đại Thiên Vương.
17 Nguyên tác: Cai-na-thuật (姟那術, niyuta): Số đếm rất lớn, nhưng có nhiều quan điểm không đồng nhau, có thể là một trăm ngàn, một triệu hoặc lớn hơn thế, mang tính ước lệ.
18 Nguyên tác: Càn-đạp-hòa (乾沓和).
19 Nguyên tác: A-tu-luân (阿須輪, asura).
20 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.2. 0823b18). Tham chiếu: Thīg. 63-6, Bhaddākāpilānītherīgāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Ni Bhaddā Kāpilānī).
21 Nguyên tác: Bà-đà (婆陀, Bhaddā). Kinh số 2, phẩm 5, tr. 44 trong tập này; Tăng. 增 (T.02. 0125.5.2. 0559a11) ghi: Bạt-đà Ca-tỳ-ly Tỳ-kheo-ni (拔陀迦毘離比丘尼, Bhaddākāpilānītherī). Vị Tỳ-kheo-ni này là phu nhân của Tôn giả Đại Ca-diếp lúc chưa xuất gia.
22 Nguyên tác: Minh Hạnh Thành Vi (明行成為).
23 Nguyên tác: Đạo Pháp Ngự (道法御).
24 Nguyên tác: Chúng Hựu (眾祐).
25 Nguyên tác: Ngụ mị (寤寐), thường dùng chỉ cho ngày đêm (常用以指日夜).
26 Nguyên tác: Như sát tượng bất thuấn (如殺象不眴). Bản Tống và bản Thánh ghi: Như sát điểu bất thuấn (如殺鳥不眴). Chim thì luôn bay lượn, muốn bắn giết chúng phải chuyên chú đến mức không chớp mắt. Ý câu kinh này là thường dõi mắt trông theo.
27 Đoạn trước diễn tả thiếu niên cầm hoa báu (寶華, bảo hoa) cúng dường Phật suốt 7 ngày 7 đêm, nhưng đoạn kinh nhắc lại ở đây lại ghi là cầm lọng báu (寶蓋, bảo cái). Trường hợp này, có thể bản Hán chép nhầm.
28 Nguyên tác: Đại gia (大家).
29 Nguyên tác: Thăng (升): Dụng cụ để đo lường lương thực, bằng 1/10 của 1 đấu (量糧食的器具, 容 量為斗的十分之一).
30 Nguyên tác: Kiếp-tỳ-la Tỳ-kheo-ni (劫毘羅比丘尼), cũng gọi là Bà-đà Tỳ-kheo-ni (婆陀比丘尼), và cũng là Bạt-đà Ca-tỳ-ly Tỳ-kheo-ni (拔陀迦毘離比丘尼, Bhaddākāpilānītherī).
31 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.3. 0825b16). Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.948. 0242b16); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.341. 0487c06); S. 15.6 - II. 182.
32 Bản Tống, Nguyên, Minh thêm cụm từ 高一由旬.
33 Bản Hán, hết quyển 50.
34 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.4. 0825c07). Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.949. 0242c01); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.342. 0487c21); S. 15.5 - II. 181.
35 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.5. 0825c22). Tham chiếu: Kinh nghe pháp đúng thời, số 1, phẩm 36, tr. 563 trong tập này; Tăng. 增 (T.02. 0125.36.1. 0702c23); A. 5.202 - III. 248.
36 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.6. 0826a01). Tham chiếu: Kinh công đức bố thí, số 10, phẩm 32, tr. 489 trong tập này; Tăng. 增 (T.02. 0125.32.10. 0680c18); A. 5.34 - III. 38; A. 7.57 - IV. 79.
37 Ma-ha Bà-na (摩訶婆那, Mahāvana), khu rừng ngoại thành Tỳ-xá-ly, còn được dịch là Đại Lâm.
38 Nguyên tác: Thí chủ đàn-việt (施主檀越). Xem chú thích 43, phẩm 32, tr. 489; Tăng. 增 (T.02. 0125. 32.10. 0680c18).
39 Nguyên tác: Trưởng giả (長者).
40 Nguyên tác: 施主檀越布施之時, 身壞命終生三十三天. Trong câu kinh này, cụm từ “trong khi bố thí” (布施之時) giống với ý kinh D. 16, Mahāparinibbāna Sutta (Kinh Đại Bát-niết-bàn): Ye hi keci, ānanda, cetiyacārikaṃ āhiṇḍantā pasannacittā kālaṅkarissanti, sabbe te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissanti (Này Ānanda, những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư thiên), HT. Thích Minh Châu dịch.
41 Nguyên tác: Trì tín (持信). Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0013b10) ghi: Hướng Tu-đà-hoàn (向須陀洹). Bạt-đà-hòa-lợi kinh 跋陀和利經 (T.01. 0026.194. 0747b05) ghi: Tín hành giả (信行者) hay Tín hành (信行).
42 Nguyên tác: Phụng pháp (奉法). Bạt-đà-hòa-lợi kinh 跋陀和利經 (T.01. 0026.194. 0747b04) ghi: Pháp hành giả (法行者) hay Pháp hành (法行); Tạp. 雜 (T.02. 0099.61. 0016a09) ghi: Tùy pháp hành (隨法行) hay Pháp hành (法行).
43 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.7. 0826c19)
44 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.8. 0827c28).
45 Nguyên tác: Bảo vũ chi xa (寶羽之車): Cỗ xe được trang hoàng bằng 5 loại lông chim quý, là nghi trượng của bậc đế vương. Xem Nhất thiết kinh âm nghĩa 一切經音義 (T.54. 2128.74. 0787b07); Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích 四分律名義標釋 (X.44. 0744.22. 0570c24).
46 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.52.9. 0829b11). Tham chiếu: Mahāsupinajātaka (Chuyện giấc mộng lớn), số 77 (J. I. 334).
47 Nguyên tác: Trai thất (齋室).
48 Ở đoạn trên, dòng 0830b20 ghi: 王便稽首作禮, 頭面著佛足. 還宮... nhưng ở đây lại ghi: 王及夫 人禮佛而去.
49 Bản Hán, hết quyển 51.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.