Tam tạng Thánh điển PGVN 23 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Dịch tiếng Việt: TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nghe pháp đúng thời có năm công đức, vì khi thọ nhận đúng thời sẽ không quên thứ lớp. Là những công đức nào? Một là, điều chưa từng nghe sẽ được nghe. Hai là, điều đã nghe sẽ được tụng đọc thuần thục. Ba là, hiểu biết không bị tà lệch. Bốn là, không có nghi ngờ. Năm là, hiểu rõ nghĩa lý sâu xa.
Nghe pháp đúng thời có năm công đức. Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy tìm cầu phương tiện để nghe pháp đúng thời.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Tạo lập nhà tắm có năm công đức. Là những công đức nào? Một là, ngăn gió. Hai là, bệnh sẽ lành. Ba là, trừ bỏ cáu bẩn. Bốn là, thân thể nhẹ nhàng. Năm là, được khỏe đẹp.4
Như vậy, này Tỳ-kheo! Tạo lập nhà tắm có năm công đức như thế. Do đó, các Tỳ-kheo! Nếu bốn bộ chúng muốn cầu năm công đức này thì nên tìm phương tiện tạo lập nhà tắm.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Bố thí tăm xỉa răng cho người có năm công đức. Là những công đức nào? Một là, ngăn gió. Hai là, trừ bệnh tăng tiết nước bọt.6 Ba là, dạ dày dễ tiêu hóa. Bốn là, miệng không hôi. Năm là, mắt luôn sáng rõ.7
Như vậy, này các Tỳ-kheo! Bố thí tăm xỉa răng có năm công đức. Nếu người thiện nam, người thiện nữ nào muốn cầu năm công đức này thì nên bố thí tăm xỉa răng.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy có thấy người nào tạo nghiệp giết hại trâu, bò thì về sau được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
– Lành thay, các Tỳ-kheo! Ta cũng không thấy, không nghe có người giết hại trâu, bò về sau lại được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn. Vì sao như vậy? Vì Ta chưa hề thấy ai giết hại trâu, bò mà được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn, vì không bao giờ có lý này. Thế nào, Tỳ-kheo! Các thầy có thấy những ai tạo việc ác như giết hại dê, heo, săn bắn hươu, nai để có được tài sản, rồi về sau lại được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
– Lành thay, các Tỳ-kheo! Ta cũng không thấy, không nghe có người giết trâu, bò, sát hại các sinh vật rồi được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn, vì không bao giờ có lý này. Này các Tỳ-kheo! Nếu thấy có người tuy giết hại trâu, bò mà được cỡi xe, cỡi ngựa là nhờ công đức đời trước, chẳng phải phước đời này, đều là do phước cũ của đời trước đem đến. Nếu các thầy thấy có người giết dê lại được cỡi xe, cỡi ngựa, nên biết người này đã gieo trồng phước đức ở đời trước. Vì sao họ lại làm như thế? Vì chưa từ bỏ tâm sát sanh. Vì sao như vậy? Vì nếu có kẻ gần gũi người ác, ưa thích việc sát sanh thì gieo trồng tội đọa địa ngục. Nếu trở lại làm người thì mạng sống rất ngắn ngủi. Nếu có kẻ ưa thích trộm cướp thì cũng gieo trồng tội địa ngục như người giết hại trâu, bò kia. Với những kẻ mua rẻ bán đắt, dối gạt thế gian, không theo Chánh pháp thì cũng giống như người giết hại trâu, bò. Do tâm sát sanh gây ra tội lỗi nên không được cỡi xe, cỡi ngựa, cỡi voi lớn. Do vậy, này các Tỳ-kheo! Nên khởi tâm từ đối với tất cả chúng sanh.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng năm trăm vị đại Tỳ-kheo ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Khi ấy, trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay, Thích-đề-hoàn-nhân đến chỗ đức Thế Tôn cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Thế Tôn:
– Theo lời Phật dạy, đấng Như Lai xuất hiện ở đời ắt sẽ vì năm điều. Là năm điều nào? Một là, sẽ vận chuyển bánh xe pháp. Hai là, sẽ độ cha mẹ. Ba là, dựng lập lòng tin cho người không tin. Bốn là, người chưa phát tâm Bồ-tát khiến phát tâm Bồ-tát. Năm là, trong thời gian đó sẽ có người được thọ ký thành Phật. Đây là năm nhân duyên Như Lai xuất hiện ở đời. Hiện nay, Phật mẫu10 ở cõi trời Ba Mươi Ba muốn được nghe pháp. Như Lai đang ngụ tại cõi Diêm- phù-đề với bốn bộ chúng vây quanh, quốc vương, dân chúng thảy đều vân tập. Lành thay, Thế Tôn! Ngưỡng mong Ngài đến cõi trời Ba Mươi Ba thuyết pháp cho Phật mẫu!
Khi ấy, Thế Tôn yên lặng nhận lời.
Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà liền nghĩ: “Các Sa-môn đầu trọc này bay phía trên ta. Ta nên tìm cách khiến họ không di chuyển được.”
Khi ấy, long vương giận dữ phun lửa khói lớn khiến cõi Diêm-phù-đề bốc cháy hừng hực. Bấy giờ, A-nan bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn, vì sao có lửa khói trong cõi Diêm-phù-đề này?
Thế Tôn bảo:
– Do hai long vương nghĩ rằng: “Sa-môn đầu trọc thường bay phía trên ta, chúng ta phải tìm cách khống chế, không cho vượt lên hư không”, rồi nổi giận phun luồng lửa khói này. Do nhân duyên ấy nên có biến cố xảy ra.
[0703c02] Khi ấy, Tôn giả Ðại Ca-diếp liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con sẽ đến thu phục chúng!
Thế Tôn bảo:
– Hai long vương này cực kỳ hung ác, khó có thể giáo hóa, thầy hãy về chỗ ngồi đi!
Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con muốn đến hàng phục long vương kia!
Thế Tôn bảo:
– Hai long vương này vô cùng hung bạo, rất khó thu phục, thầy hãy trở về chỗ ngồi đi!
Các Tôn giả như Ly-việt, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả Ưu-đà-di, Tôn giả Bà-kiệt đều từ chỗ ngồi đứng dậy, thưa:
– Bạch Thế Tôn, chúng con muốn đến hàng phục long vương!
Thế Tôn bảo:
– Hai long vương này vô cùng hung ác, rất khó giáo hóa. Các thầy hãy về chỗ đi!
Bấy giờ, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai bên phải, quỳ gối chắp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con muốn đến đó hàng phục long vương!
Thế Tôn bảo:
– Hai long vương này vô cùng hung ác, rất khó giáo hóa, thầy làm sao cảm hóa họ được?
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, khi con đến, trước tiên con sẽ biến thân mình thật lớn khiến cho rồng kia khiếp vía. Sau đó, con lại biến thân mình thành cực nhỏ rồi mới dùng phép thường để hàng phục chúng.
Thế Tôn bảo:
– Lành thay, Mục-liên! Thầy có khả năng đảm trách việc hàng phục long vương, nhưng này Mục-liên! Phải kiên trì tâm ý, chớ khởi loạn tưởng. Vì sao như thế? Bởi rồng kia rất hung ác, luôn sẵn sàng quấy phá thầy.
Tôn giả Mục-liên đảnh lễ sát chân Phật, trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay liền biến mất, hiện trên núi Tu-di. Bấy giờ, long vương Nan-đà và Ưu- bàn-nan-đà lượn quanh núi Tu-di bảy vòng, sân hận tột độ, phun khói lửa ngùn ngụt. Khi ấy, Mục-liên ẩn mình, rồi hóa thành long vương cực lớn có mười bốn đầu, lượn quanh núi Tu-di mười bốn vòng, phun khói lửa dữ dội ở ngay phía trên hai long vương kia.
Bấy giờ, long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà thấy long vương cực lớn có mười bốn đầu nên vô cùng sợ hãi, bảo nhau:
– Chúng ta nên thử oai lực của long vương này xem có thắng hay không?
Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà quẩy đuôi trong biển cả, vẩy nước khắp cõi trời Ba Mươi Ba nhưng không trúng vào thân Mục-liên. Khi ấy, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên cũng hiện quẩy đuôi trong biển cả, nước tung tóe lên đến trời Phạm-ca-di11 và vẩy trên thân hai long vương.
[0704a02] Khi ấy, hai long vương liền bảo nhau: “Chúng ta đã sử dụng hết thế lực để vẩy nước lên đến cõi trời Ba Mươi Ba, nhưng long vương cực lớn này lại vượt xa hơn nữa. Chúng ta chỉ có bảy đầu, long vương này lại có đến mười bốn đầu. Chúng ta nhiễu quanh núi Tu-di bảy vòng, long vương này nhiễu quanh núi Tu-di đến mười bốn vòng. Chúng ta nên hợp sức chiến đấu.”
Khi ấy, hai long vương nổi cơn thịnh nộ phóng sấm sét rền trời, phun lửa ngùn ngụt. Tôn giả Mục-liên liền nghĩ: “Khi đấu tranh, rồng thường sử dụng lửa, sấm sét, nếu ta cũng dùng lửa, sấm sét chiến đấu thì dân chúng trong cõi Diêm-phù-đề và cõi trời Ba Mươi Ba đều sẽ bị tổn hại. Ta nên biến hóa thân hình cực nhỏ để chiến đấu.”
Mục-liên liền hóa thân hình cực nhỏ, chui vào miệng rồng rồi thoát ra nơi lỗ mũi, hoặc vào từ lỗ mũi rồi thoát ra lỗ tai, hoặc vào lỗ tai rồi thoát ra con mắt, khi ra khỏi mắt thì đi trên lông mi.
Khi đó hai long vương vô cùng kinh sợ, nghĩ rằng: “Vị long vương lớn này oai lực cực thâm hậu mới có thể chui vào miệng rồi thoát ra nơi lỗ mũi, từ lỗ mũi rồi thoát ra mắt. Hôm nay, chúng ta thật sự đã thua cuộc. Loài rồng chúng ta có bốn chủng loại: Sanh từ trứng, sanh từ bào thai, sanh từ nơi ẩm ướt và sanh do biến hóa, không ai có thể vượt qua nổi chúng ta. Oai lực của long vương này như vầy thì ta không thể kháng cự được. Chúng ta sẽ bị mất mạng ngay.”
Cả hai đều hoảng sợ, lông toàn thân dựng đứng. Thấy long vương quá sợ hãi, Mục-liên lại ẩn mình, hiện nguyên hình rồi đi trên mí mắt rồng. Sau khi thấy Ðại Mục-liên, hai long vương bảo nhau:
– Ðây là Sa-môn Mục-liên, không phải long vương. Thật là kỳ diệu! Vị này oai lực thâm hậu mới có thể đánh nhau với chúng ta.
Bấy giờ, hai long vương nói với Mục-liên:
– Sao Tôn giả lại quấy nhiễu chúng tôi như thế? Ngài muốn răn dạy điều gì chăng?
Mục-liên bảo:
– Có phải hôm qua các ông nghĩ như vầy: “Sa-môn đầu trọc sao lại có thể bay phía trên chúng ta? Chúng ta nên ngăn cản việc đó.”
Long vương đáp:
– Ðúng thế, thưa ngài Mục-liên!
Mục-liên bảo:
– Long vương nên biết! Núi Tu-di này là đường đi của chư thiên, chẳng phải nơi các ông cư ngụ.
Long vương thưa:
– Mong ngài tha thứ cho! Chúng tôi chẳng biết điều quan trọng này, từ nay về sau sẽ không dám quấy nhiễu, nghĩ xấu, làm ác, cúi xin ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử!
[0704b02] Mục-liên đáp:
– Các ông chớ quy y ta, hãy đến quy y nơi ta đã quy y!
Long vương nói với Mục-liên:
– Hôm nay, chúng con xin tự quy y Như Lai!
Mục-liên đáp:
– Các ông không thể quy y Thế Tôn ở núi Tu-di này, hãy cùng ta đến thành Xá-vệ mới quy y được!
Rồi trong khoảng thời gian như co duỗi cánh tay, Mục-liên dẫn hai long vương rời núi Tu-di đến thành Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng đông vô số. Mục-liên bảo hai long vương:
– Các ông nên biết! Hôm nay, Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng đông vô số, các ông không thể đến diện kiến đức Phật bằng hình hài này được!
Long vương bảo:
– Ðúng vậy, thưa ngài Mục-liên!
Long vương liền ẩn hình rồng, hóa thành hình người không cao, không thấp, dung mạo đoan chánh như màu hoa đào rồi cùng Tôn giả Mục-liên đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên. Khi ấy, Tôn giả Mục-liên bảo long vương:
– Bây giờ đã đúng thời, hãy bước ra thưa thỉnh!
Nghe Mục-liên nói, long vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ xuống chắp tay bạch Thế Tôn:
– Bạch đức Thế Tôn! Hai chúng con tên là Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà xin quy y Như Lai, thọ trì năm giới. Cúi mong Thế Tôn cho phép chúng con làm ưu-bà-tắc, trọn đời không sát sanh nữa!
Thế Tôn tùy hỷ chấp thuận.12 Hai long vương trở về chỗ ngồi, muốn được nghe pháp.
Lúc ấy, Vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: “Có nhân duyên gì khiến trong cõi Diêm- phù-đề khói lửa như thế?” Nhà vua liền lên xe gắn lông chim quý, ra khỏi thành Xá-vệ đến chỗ đức Thế Tôn. Khi ấy, từ xa thấy nhà vua đến, dân chúng thảy đều đứng dậy tiếp đón:
– Ðại vương vạn tuế, xin mời đến đây ngồi!
Hai long vương vẫn ngồi yên lặng. Vua Ba-tư-nặc cúi lạy sát chân đức Thế Tôn rồi ngồi sang một bên. Khi ấy, nhà vua thưa:
– Con có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Thế Tôn chỉ bày để con tỏ tường!
Thế Tôn bảo:
– Ngài có điều gì thưa hỏi, bây giờ quả là đúng thời!
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
– Do nhân duyên gì khiến cõi Diêm-phù-đề này khói lửa như thế?
Thế Tôn bảo:
– Do long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà gây ra, nhưng Đại vương chớ sợ hãi, từ nay không còn biến cố khói lửa nữa.
[0704c01] Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: “Ta là vua của một nước, nhân dân thảy [đều] tôn kính, danh vang khắp bốn phương. Chẳng biết hai kẻ này từ đâu đến, thấy ta đến đây cũng không đứng dậy nghinh tiếp? Nếu ở trong nước thì ta sẽ bắt giam, nếu ở nước khác đến thì ta sẽ giết chết.”
Biết tâm của Vua Ba-tư-nặc đang nghĩ như thế, long vương liền nổi giận, nghĩ: “Chúng ta chẳng có lỗi gì với ông vua này, thế mà ông ấy lại muốn hại ta. Chắc ta phải bắt quốc vương và dân chúng nước Ca-di13 giết hết.”
Long vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy sát chân Thế Tôn rồi lui ra, rời khỏi Kỳ Hoàn chẳng bao xa thì biến mất. Thấy họ đi rồi, một lát sau nhà vua bạch Thế Tôn:
– Quốc sự bận rộn, con xin hồi cung!
Thế Tôn bảo:
– Nên biết đúng thời!
Vua Ba-tư-nặc từ chỗ ngồi đứng dậy lui ra rồi bảo quần thần:
– Hai người vừa rồi đi đường nào? Mau bắt chúng lại!
Tuân lệnh vua, quần thần liền đuổi theo, tìm mãi không thấy liền trở về cung.
Khi đó, long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà cùng nghĩ: “Chúng ta không có lỗi với ông vua kia nhưng vừa rồi ông ta lại muốn bắt để giết hại. Chúng ta nên giết hết dân chúng của ông ấy không để sót một ai.”
Khi ấy long vương lại nghĩ rằng: “Dân chúng trong nước này đâu có tội lỗi gì? Nên bắt dân chúng trong thành Xá-vệ giết hại hết.” Rồi lại nghĩ: “Dân chúng thành Xá-vệ nào có lỗi lầm gì với chúng ta. Nên đem các quan lại thuộc hạ trong vương cung giết sạch.”
Bấy giờ, biết tâm tư của long vương, đức Phật liền bảo Tôn giả Mục-liên:
– Thầy hãy cứu giúp Vua Ba-tư-nặc, chớ để cho long vương Nan-đà và Ưu- bàn-nan-đà làm hại!
Mục-liên đáp:
– Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Vâng lời Phật dạy, Mục-liên cúi lạy sát chân rồi đi. Tôn giả ngồi kiết-già, ẩn thân trong cung vua. Hai long vương kéo đến sấm sét vang rền, gió mưa vần vũ nơi cung vua. Có lúc mưa ngói đá, hoặc mưa đao kiếm nhưng chưa rơi xuống đất đã biến thành hoa sen xanh14 trong hư không. Khi ấy, long vương càng thêm tức giận, tuôn mưa biến thành ngọn núi sừng sững trong cung điện, Mục-liên lại hóa thành đủ loại thực phẩm. Long vương lại nổi giận đùng đùng, trút mưa đao kiếm, Mục-liên lại biến thành y phục tuyệt đẹp. Long vương càng thêm giận dữ, dội mưa cát, sỏi đá trên cung Vua Ba-tư-nặc, cát đá chưa rơi xuống đất lại hóa thành bảy báu.
[0705a04] Bấy giờ, thấy trong cung điện mưa tuôn đủ loại bảy báu, Vua Ba- tư-nặc thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, liền nghĩ: “Trong cõi Diêm-phù- đề, không ai có đức hơn ta, chỉ trừ Như Lai. Vì sao như thế? Trong nước ta, gieo một gốc lúa thu hoạch được một đấu lúa, nấu cơm với nước mía vô cùng thơm ngon. Nay ở trên cung điện lại có mưa bảy báu, chẳng lẽ ta được làm Chuyển Luân Thánh vương ư?”
Vua Ba-tư-nặc ra lệnh các thể nữ thu nhặt bảy báu. Khi ấy, hai long vương bảo nhau:
– Sao lại thế này? Khi đến đây, chúng ta muốn làm hại Vua Ba-tư-nặc, nay lại biến hóa ra như thế. Bao nhiêu thế lực hôm nay đã vận dụng hết nhưng không thể động đến Vua Ba-tư-nặc mảy may nào.
Khi ấy, long vương thấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên ngồi kiết-già nơi cung điện, thân đoan ý chánh, không hề nghiêng lệch, họ liền nghĩ: “Những việc này chắc chắn do ngài Mục-liên làm.”
Nhìn thấy Tôn giả Mục-liên, hai long vương liền bỏ đi. Mục-liên thấy long vương đi rồi liền xả thần túc, trở về trước Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên. Khi đó, Vua Ba-tư-nặc nghĩ: “Các thực phẩm này không nên dùng trước. Nên dâng lên Như Lai rồi sau mới dùng.”
Vua Ba-tư-nặc liền dùng xe chở châu báu và đủ loại thực phẩm đến chỗ Thế Tôn rồi thưa:
– Hôm qua, trời rưới mưa bảy báu và các loại thực phẩm này, cúi mong Thế Tôn nạp thọ!
Bấy giờ, Ðại Mục-kiền-liên ngồi cách Thế Tôn không xa. Phật bảo nhà vua:
– Ðại vương nên đem thực phẩm và bảy báu này dâng cúng cho Ðại Mục- liên. Vì sao như thế? Nhờ ơn Mục-liên mà Đại vương được tái sanh trên đất Thánh hiền.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Ngài nói con được tái sanh?
Thế Tôn bảo:
– Sáng hôm qua chẳng phải Đại vương đã đến đây nghe pháp hay sao? Lúc ấy, có hai người cũng đến nghe pháp. Ông nghĩ như vầy: “Ở đất nước này, ta là bậc hào quý đệ nhất, được mọi người kính nể, nhưng hai người này từ đâu đến, thấy ta mà không đứng dậy tiếp đón?”
Nhà vua bạch Phật:
– Quả thật như vậy! Bạch đức Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
– Họ không phải là người mà chính là hai long vương Nan-đà và Ưu-bàn- nan-đà. Biết tâm của vua nên bảo nhau: “Chúng ta không có lỗi đối với ông vua cõi người này, cớ sao muốn hại ngược lại ta? Chúng ta nên tìm phương cách tiêu diệt đất nước này.” Ta quán sát được ý của long vương liền sai Mục-liên: “Ông nên cứu giúp Vua Ba-tư-nặc, đừng để bị rồng làm hại.” Vâng lời Ta dạy, thầy ấy ẩn hình nơi cung điện và tạo ra sự biến hóa này. Khi ấy, long vương hết sức giận dữ, tuôn mưa cát, ngói và đá ở trên cung điện, nhưng chưa rơi xuống đất đã hóa thành đủ loại thực phẩm, y phục và bảy báu. Do nhân duyên này nên Như Lai nói hôm nay Đại vương như được tái sanh.
Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc rất đỗi kinh sợ, toàn thân sởn gai ốc, quỳ gối tiến lên đến trước Như Lai rồi thưa:
– Nhờ ơn sâu dày của Thế Tôn mà sanh mạng của con được cứu sống.
Nhà vua lại lạy sát chân Tôn giả Mục-liên, cung kính thưa:
– Nhờ ơn của Tôn giả mà con được cứu mạng sống. Bấy giờ, quốc vương liền nói kệ này:
Mong Thế Tôn trường thọ,
Luôn cứu hộ mạng con,
Ðộ thoát khổ, khốn cùng,
Nhờ Ngài được thoát nạn.
Thế rồi, Vua Ba-tư-nặc dùng hương hoa cõi trời rải trên thân Như Lai và thưa:
– Con xin đem bảy báu này dâng lên ngôi Tam bảo, cúi mong nạp thọ! Rồi nhà vua cúi lạy sát chân, nhiễu Phật ba vòng rồi ra về.
Khi ấy, đức Thế Tôn nghĩ: “Bốn bộ chúng này đa phần biếng nhác, không muốn nghe pháp, cũng không tìm cầu phương tiện để tự thân chứng đắc, cũng chẳng mong cầu chứng đạt được điều chưa chứng đạt, chứng đắc điều chưa chứng đắc. Nay Ta phải khiến cho bốn bộ chúng khát ngưỡng giáo pháp.”
Bấy giờ, Thế Tôn không báo cho bốn bộ chúng biết, cũng chẳng dẫn theo thị giả, trong khoảng thời gian như co duỗi cánh tay liền biến mất khỏi Kỳ Hoàn, đi đến cõi trời Ba Mươi Ba. Từ xa nhìn thấy Thế Tôn đến, Thích-đề- hoàn-nhân liền dẫn chúng trời ra trước nghinh đón, cúi lạy sát chân rồi thỉnh Thế Tôn an tọa, thưa:
– Lành thay, Thế Tôn đến! Xa cách đã lâu, chúng con không được hầu cận Ngài!
Khi ấy, Thế Tôn nghĩ: “Ta sẽ dùng thần túc tự ẩn hình khiến mọi người không thấy Ta ở đâu.”
Rồi Thế Tôn lại nghĩ: “Ta đang ở cung trời Ba Mươi Ba nên hóa thân cực lớn.” Khi ấy, giảng đường Thiện Pháp của cõi trời có tảng đá bằng vàng, chu vi một do-tuần, Thế Tôn ngồi kiết-già vừa trọn trên ấy. Phật mẫu Ma-da dẫn các thiên nữ đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên, thưa:
– Xa cách quá lâu, hôm nay Ngài đến đây thật là đại hạnh! Tôi hằng mong nhớ, khát khao được gặp Ngài, nay Như Lai mới đến.
Sau khi Phật mẫu Ma-da cúi lạy sát chân rồi ngồi sang một bên, Thích-đề- hoàn-nhân cũng đảnh lễ Như Lai rồi ngồi một bên. Chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba cũng đảnh lễ sát chân Phật [rồi] ngồi sang một bên. Khi chư thiên trông thấy Như Lai thì chúng trời tăng thêm, chúng a-tu-la giảm bớt.
[0705c09] Bấy giờ, Thế Tôn tuần tự thuyết pháp vi diệu cho chư thiên nghe. Ngài giảng về bố thí, về trì giới, về sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, dâm là xấu ác, giải thoát là an vui.
Bấy giờ, Thế Tôn quán sát tâm ý của đại chúng nghe pháp và chư thiên đã khai mở, Ngài liền giảng thuyết về khổ, tập, diệt và đạo, như pháp chư Phật, Thế Tôn thường thuyết. Hết thảy đại chúng ngay tại chỗ ngồi của mình, sạch hết trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Lại có mười tám ức thiên nữ thấy được đạo, ba vạn sáu ngàn chúng trời được Pháp nhãn thanh tịnh. Khi ấy, Phật mẫu Ma-da liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy sát chân Phật rồi trở về cung. Thích- đề-hoàn-nhân bạch Phật:
– Con nên dùng loại thực phẩm nào để dâng lên Như Lai? Dùng thực phẩm của cõi người hay thực phẩm tự nhiên của cõi trời?
Thế Tôn bảo:
– Nên dùng thực phẩm của cõi người để dâng lên Như Lai. Vì sao như vậy? Bởi thân Ta sanh ra ở nhân gian, trưởng thành ở nhân gian và thành Phật ở nhân gian.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
– Xin vâng, thưa Thế Tôn!
Thích-đề-hoàn-nhân lại thưa:
– Theo thời gian cõi trời hay theo thời gian của cõi người?
Thế Tôn bảo:
– Theo thời gian của cõi người.
– Xin vâng, thưa Thế Tôn!
Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân liền sửa soạn thực phẩm của cõi người, lại theo thời gian cõi người dâng lên Như Lai.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba bảo nhau:
– Nay chúng ta mới được thấy Như Lai dùng cơm mỗi ngày.
Thế Tôn liền nghĩ: “Ta nên vào Như thị tam-muội,15 muốn chư thiên đến thì chư thiên đến, muốn chư thiên lui ra thì họ tự lui ra.” Khi ấy, Thế Tôn nhập vào định này khiến chư thiên đến, đi tùy thời.
Bốn bộ chúng ở nhân gian đã lâu không được gặp Như Lai, họ liền đi đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa:
– Hiện nay Như Lai đang ở đâu? Chúng con rất mong được gặp Ngài.
[0706a01] Tôn giả A-nan đáp:
– Chúng tôi cũng không biết Như Lai đang cư ngụ nơi nào.
Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc và Vua Ưu-điền đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa:
– Hiện thời Như Lai đang ở đâu?
Tôn giả A-nan đáp:
– Ðại vương! Tôi cũng chẳng biết trú xứ hiện tại của Như Lai.
Vì quá nhớ mong, muốn diện kiến Như Lai nên cả hai vua đều rất đau buồn.
Bấy giờ, quần thần đến chỗ Vua Ưu-điền, tâu:
– Bệ hạ lâm bệnh gì sao?
Vua đáp:
– Ta vì buồn rầu sanh bệnh.
Quần thần tâu vua:
– Vì cớ gì mà buồn rầu thành bệnh?
Nhà vua đáp:
– Do không gặp được Như Lai. Nếu không thể diện kiến đức Như Lai, chắc trẫm sẽ chết mất.
Quần thần liền nghĩ: “Phải dùng phương cách nào đó, chẳng lẽ để Vua Ưu- điền băng hà sao? Chúng ta nên tạo dựng tôn tượng Như Lai!”
Quần thần tâu vua:
Chúng thần muốn tạo dựng tôn tượng Như Lai để có thể cung kính, cúng dường, lễ bái.
Vua nghe như vậy, thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, liền bảo quần thần:
– Lành thay! Điều các khanh vừa nói rất vi diệu.
Quần thần tâu:
– Tâu Đại vương! Nên dùng báu vật nào để tạo tôn tượng của Như Lai?
Nhà vua liền truyền lệnh cho những bậc thầy giỏi về mỹ thuật trong nước:
– Nay trẫm muốn tạo dựng tôn tượng Như Lai.
Những người thợ đáp:
– Xin tuân lệnh, Đại vương!
Vua Ưu-điền liền dùng gỗ Ngưu Đầu chiên-đàn tạo tôn tượng Như Lai cao năm thước. Lúc ấy, nghe tin Vua Ưu-điền tạo tôn tượng Phật cao năm thước để cúng dường, Vua Ba-tư-nặc liền triệu tập thợ khéo trong nước và ra lệnh:
– Trẫm muốn tạo dựng tôn tượng Như Lai, các ông phải tiến hành ngay!
Vua Ba-tư-nặc nghĩ: “Nên dùng báu vật nào để tạc tôn tượng Như Lai?” Lát sau, vua lại nghĩ: “Hình thể Như Lai ánh vàng như màu vàng cõi trời nên sử dụng vàng ròng để tạc tôn tượng Như Lai.”
Vua Ba-tư-nặc liền lấy vàng tử-ma16 thuần chất để tạo tôn tượng Như Lai cao năm thước. Và từ đây, hai tôn tượng Như Lai mới hiện hữu trong cõi Diêm- phù-đề này. Khi ấy, bốn bộ chúng đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa:
– Chúng con khát ngưỡng Như Lai, luôn nhớ nghĩ, muốn hầu cận Ngài. Nay Như Lai đang du hóa nơi đâu?
A-nan đáp:
– Chúng tôi cũng chẳng biết Như Lai đang cư ngụ nơi nào. Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau đến chỗ Tôn giả A-na-luật thưa hỏi việc này. Vì sao như vậy? Vì Tôn giả A-na-luật thiên nhãn bậc nhất, thanh tịnh không chút cấu nhiễm. Tôn giả sẽ dùng thiên nhãn quán sát một ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới. Tôn giả ấy có thể thấy biết.
[0706b03] Bốn bộ chúng cùng A-nan đến trước Tôn giả A-na-luật. A-nan thưa:
– Bốn bộ chúng này đến chỗ tôi hỏi: “Hiện nay Thế Tôn đang du hóa nơi đâu?” Cúi mong Tôn giả dùng thiên nhãn quán sát Như Lai đang ngụ tại trú xứ nào?
Tôn giả A-na-luật bảo:
– Các ông hãy chờ giây lát. Tôi sẽ quán sát xem Như Lai đang cư ngụ nơi nào. Khi ấy, Tôn giả A-na-luật thân tâm đoan chánh, giữ niệm trước mặt, dùng thiên nhãn quán sát trong cõi Diêm-phù-đề nhưng không thấy. Tôn giả lại dùng thiên nhãn quán sát các cõi Cù-da-ni, Phất-vu-đãi, Uất-đan-việt17 cũng chẳng thấy. Lại quán sát cõi trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, cõi Diệm thiên, trời Ðâu-suất, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại, rồi quán sát đến cõi Phạm thiên mà chẳng thấy Như Lai đâu. Lại quán sát ngàn cõi Diêm-phù- đề, ngàn cõi Cù-da-ni, ngàn cõi Uất-đan-việt, ngàn cõi Phất-vu-đãi, ngàn cõi Tứ Thiên Vương, ngàn cõi Diệm thiên, ngàn cõi trời Ðâu-suất, ngàn cõi trời Hóa Tự Tại, ngàn cõi trời Tha Hóa Tự Tại và ngàn cõi Phạm thiên cũng không thể tìm thấy Như Lai. Lại quán sát khắp ba ngàn đại thiên cõi nước mà cũng chẳng thấy.
Tôn giả A-na-luật liền từ tòa đứng dậy, nói với Tôn giả A-nan:
– Tôi đã quán sát khắp ba ngàn đại thiên cõi nước vẫn không thấy Như Lai.
Bấy giờ, A-nan và bốn bộ chúng đứng lặng yên. A-nan nghĩ: “Như Lai sẽ không nhập Niết-bàn chứ?”
Khi đó, chúng trời Ba Mươi Ba bảo nhau:
– Chúng ta vui mừng vì được thiện lợi. Cúi mong bảy vị Phật thường xuất hiện ở đời để trời và người được thấm nhuần lợi lạc!
Có vị trời bảo rằng:
– Đừng mong đủ bảy vị Phật, giả sử chỉ có sáu vị Phật cũng đã quá tốt rồi!
Vị trời khác lại nói:
– Giả sử chỉ có năm vị Phật.
Hoặc có vị nói bốn vị Phật, ba vị Phật, hai vị Phật xuất hiện ở đời sẽ thấm nhuần lợi ích.
Thích-đề-hoàn-nhân bảo chư thiên:
– Hãy dừng ý nghĩ bảy vị Phật cho đến hai vị Phật. Giả sử hiện tại đức Phật Thích-ca trụ lâu ở đời thì được nhiều lợi ích rồi!
Bấy giờ, ý Như Lai muốn chư thiên đến thì chư thiên liền đến, ý muốn cho chư thiên đi thì chư thiên liền đi. Lúc ấy, chúng trời Ba Mươi Ba bảo nhau:
– Cớ sao Như Lai lại thọ thực suốt ngày vậy?
Thích-đề-hoàn-nhân bảo chúng trời:
– Như Lai thọ trai theo thời gian của cõi người, không phải theo thời gian cõi trời.
Trải qua ba tháng, đức Thế Tôn suy nghĩ: “Bốn bộ chúng ở Diêm-phù-đề không gặp Ta đã lâu, chắc họ rất trông mong, khát ngưỡng. Ta nên xả thần túc khiến cho hàng Thanh văn biết Như Lai đang cư ngụ tại cõi trời Ba Mươi Ba.” Khi ấy, Thế Tôn liền xả thần túc.
[0706c06] Tôn giả A-nan đến chỗ Tôn giả A-na-luật, thưa:
– Bốn bộ chúng đang rất khát ngưỡng mong diện kiến Như Lai. Đức Như Lai không phải đã Diệt độ chứ?
Tôn giả A-na-luật bảo A-nan:
– Ðêm qua có vị trời đến báo cho tôi rằng: “Như Lai đang ngụ tại giảng đường Thiện Pháp cõi trời Ba Mươi Ba. Thầy hãy chờ giây lát. Tôi sẽ quán sát nơi Như Lai đang cư ngụ.”
Tôn giả A-na-luật liền ngồi kiết-già, thân tâm ngay thẳng, tâm không dao động, dùng mắt trời quán sát cõi trời Ba Mươi Ba, thấy Thế Tôn đang an tọa trên tảng đá ngang dọc khoảng một do-tuần. Khi ấy, Tôn giả A-na-luật xả chánh định, bảo A-nan:
– Đức Như Lai đang ở cõi trời Ba Mươi Ba thuyết pháp cho thân mẫu. Tôn giả A-nan và bốn bộ chúng thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng.
A-nan hỏi bốn bộ chúng:
– Vị nào có thể đảm nhận đến cõi trời Ba Mươi Ba thăm hỏi đức Thế Tôn?
Tôn giả A-na-luật nói:
– Tôn giả Mục-liên thần thông bậc nhất, mong Tôn giả vận thần thông đến thăm hỏi Như Lai.
Khi ấy, bốn bộ chúng bạch Tôn giả Mục-liên:
– Đức Như Lai đang cư ngụ tại cõi trời Ba Mươi Ba. Cúi mong Tôn giả nhân danh bốn chúng thăm hỏi Như Lai. Lại thưa đức Phật ý như vầy: “Thế Tôn chứng đạo ở cõi Diêm-phù-đề. Ngưỡng mong Ngài thu nhiếp thần lực, trở về thế gian.”
Mục-liên bảo:
– Lành thay, chư Hiền!
Nhận lời của bốn bộ chúng, trong khoảng thời gian như co duỗi cánh tay, Mục-liên lên cõi trời Ba Mươi Ba, đến chỗ Như Lai. Từ xa, Thích-đề-hoàn- nhân và chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba thấy Mục-liên đến, họ đều nghĩ: “Vị này chắc là sứ giả của chúng Tăng, cũng giống như sứ giả của các vua?” Bấy giờ, chư thiên đều đứng dậy nghinh đón.
– Kính chào Tôn giả!
Từ xa, Tôn giả Mục-liên thấy Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số chúng, liền nghĩ: “Thế Tôn ở trong cõi trời này cũng bị phiền phức, ồn náo.” Mục-liên đến trước Thế Tôn cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Bấy giờ, Mục-liên bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Bốn bộ chúng hỏi thăm Như Lai được mạnh khỏe, nhẹ nhàng thư thái.
Lại thưa:
– Như Lai sanh trưởng trong Diêm-phù-đề, đắc đạo ở cõi người. Cúi mong Thế Tôn trở lại thế gian. Bốn bộ chúng khát ngưỡng muốn diện kiến Thế Tôn!
[0707a04] Thế Tôn bảo:
– Mong bốn bộ chúng tiến tu đạo nghiệp, không biết mệt mỏi. Thế nào Mục-liên! Bốn bộ chúng du hóa vất vả không? Có hòa hợp không? Ngoại đạo dị học không xúc nhiễu chứ?
Mục-liên đáp:
– Bạch đức Thế Tôn! Bốn bộ chúng hành đạo không mỏi mệt.
– Nhưng này Mục-liên! Vừa rồi thầy nghĩ rằng Như Lai ở đây cũng bị phiền phức, ồn náo. Việc này không đúng. Vì sao như thế? Vì thời thuyết pháp của Ta không lâu, khi Ta nghĩ: “Muốn cho chư thiên đến, họ liền đến, muốn chư thiên không đến thì họ không đến.” Này Mục-liên! Thầy hãy trở về thế gian, sau bảy ngày nữa, Như Lai sẽ về đến Tăng-già-thi,18 bên cạnh hồ nước lớn.
Lúc ấy, trong khoảng thời gian như co duỗi cánh tay, Tôn giả Mục-liên liền trở về thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc, đến báo với bốn bộ chúng rằng:
– Chư Hiền nên biết! Bảy ngày nữa Như Lai sẽ trở lại cõi Diêm-phù-đề bên hồ nước lớn, ở thành Tăng-già-thi.
Bấy giờ, bốn bộ chúng nghe xong thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng. Vua Ba-tư-nặc, Vua Ưu-điền, Vua Ác Sanh, Vua Ưu-đà-diên và Vua Tần-bà-sa- la hay tin sau bảy ngày nữa, Như Lai sẽ về đến bên hồ nước lớn ở Tăng-già-thi, mọi người đều vô cùng hoan hỷ, phấn khởi tột độ. Khi ấy, dân chúng thành Tỳ- xá-ly, dòng họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ và dân chúng Câu-di-la-việt nghe tin Như Lai sẽ trở về Diêm-phù-đề, họ đều vui mừng hớn hở, phấn khởi tột cùng.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc ra lệnh triệu tập bốn bộ binh chủng đến bên hồ nước, muốn cung đón Thế Tôn. Năm vua đều triệu tập binh lính đến chỗ Thế Tôn, vì họ muốn đích thân được thăm viếng Như Lai và dân chúng. Dòng họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ và bốn bộ chúng đều đến chỗ Thế Tôn, muốn được cung đón Như Lai.
Đầu ngày thứ bảy, Thích-đề-hoàn-nhân bảo thiên tử Tự Tại:
– Ông hãy tạo ba con đường từ đỉnh núi Tu-di đến hồ nước ở Tăng-già-thi. ta quán sát Như Lai sẽ không vận dụng thần thông khi trở lại cõi Diêm-phù-đề.
Thiên tử Tự Tại đáp:
– Việc này quá quý hóa! Sẽ hoàn thành đúng lúc.
Bấy giờ, thiên tử Tự Tại liền hóa ra ba con đường bằng vàng, bạc và thủy tinh. Con đường bằng vàng ở giữa, hai bên là hai con đường bằng bạc và thủy tinh, có hàng cây bằng vàng. Ngay lúc ấy, hết thảy chư thiên tôn thần diệu đều đến nghe pháp trong bảy ngày.
[0707b04] Thế Tôn thuyết pháp cho nhiều ngàn vạn chúng vây quanh. Ngài dạy: “Năm thủ uẩn là khổ. Là năm loại nào? Đó là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Thế nào là sắc uẩn? Nghĩa là thân bốn đại, sắc được tạo bởi bốn đại nên gọi là sắc uẩn.
Thế nào gọi là thọ uẩn? Nghĩa là cảm thọ khổ, cảm thọ lạc và cảm thọ không khổ không lạc gọi là thọ uẩn.
Sao gọi là tưởng uẩn? Nghĩa là hội tụ cả ba đời nên gọi là tưởng uẩn.
Sao gọi là hành uẩn? Đó là nghiệp của thân, nghiệp của miệng và nghiệp của ý nên gọi là hành uẩn.
Sao gọi là thức uẩn? Nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý gọi là thức uẩn.
Thế nào gọi là sắc? Lạnh cũng là sắc, nóng cũng là sắc, đói cũng là sắc, khát cũng là sắc.
Thế nào gọi là thọ? Thọ nghĩa là cảm nhận. Cảm nhận điều gì? Cảm nhận khổ, cảm nhận lạc và cảm nhận không khổ không lạc, gọi là cảm nhận.
Thế nào gọi là tưởng? Tưởng cũng là biết. Biết xanh, biết vàng, biết trắng, biết đen, biết khổ vui, nên gọi là biết.
Thế nào gọi là hành? Hành là tạo tác nên gọi là hành. Tạo tác điều gì? Hoặc tạo tác nghiệp ác, hoặc tạo thành nghiệp thiện, nên gọi là hành.
Thế nào gọi là thức? Biết phân biệt đúng sai, cũng nhận biết các vị, đây gọi là thức.
Các thiên tử nên biết, có năm thủ uẩn này thì biết có ba đường: Đường ác, đường cõi trời và đường cõi người. Năm thủ uẩn này diệt liền biết có đường Niết-bàn.”
Lúc đức Phật thuyết pháp này xong, có sáu vạn cư dân cõi trời đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Thế Tôn thuyết pháp cho chư thiên xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến đỉnh núi Tu-di nói kệ này:
Với Phật, Pháp, Thánh chúng,
Hãy siêng học, chuyên cần,
Đường chết sẽ lấp dần,
Như voi bị điều phục.
Ai không chút biếng nhác,
Với pháp khéo hành trì,
Gốc tử sanh sẽ đoạn,
Nguồn đau khổ tiêu tan.
[0707c01] Nói kệ này rồi, Thế Tôn liền đến con đường ở giữa. Khi ấy Phạm thiên ở con đường bằng bạc bên phải Thế Tôn, Thích-đề-hoàn-nhân ở con đường thủy tinh, chư thiên ở giữa hư không rải hoa, đốt hương, ca múa, hòa nhạc làm vui lòng Như Lai.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc19 nghe tin hôm nay Như Lai sẽ trở lại cõi Diêm-phù-đề, bên hồ nước lớn ở Tăng-già-thi, liền nghĩ: “Bốn bộ chúng, quốc vương, đại thần và dân chúng trong nước không ai là không đến. Ta không nên đến bằng cách thông thường. Ta sẽ biến thành thân Chuyển Luân Thánh vương đến yết kiến Thế Tôn.” Thế rồi, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc liền ẩn hình, hóa thành Chuyển Luân Thánh vương có đầy đủ bảy báu. Bảy báu gồm xe báu, voi báu, ngựa báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, binh chủ báu và điển tạng báu.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề đang vá y bên sườn núi Kỳ-xà quật, thuộc thành La-duyệt. Nghe tin hôm nay đức Thế Tôn sẽ trở về cõi Diêm-phù-đề, bốn bộ chúng đều đến diện kiến, Tôn giả Tu-bồ-đề liền nghĩ: “Ta nên đến thăm hỏi lễ bái Như Lai.” Thế rồi, Tôn giả Tu-bồ-đề liền ngừng việc vá y, từ chỗ ngồi đứng lên, khi bàn chân phải vừa chạm đất, ngài bỗng nghĩ rằng: “Thân thể của Như Lai, cái gì gọi là Thế Tôn? Có phải là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chăng? Người đến diện kiến cũng là đất, nước, gió, lửa ư? Tất cả các pháp thảy đều vắng lặng, không tạo, không tác. Như lời kệ Thế Tôn từng dạy:
Nếu người muốn lễ Phật,
Và những bậc Tối tôn,
Phải quán tất cả uẩn,
Xứ, giới đều vô thường.
Chư Phật thuở quá khứ,
Các Phật ở tương lai,
Cùng đức Phật hiện tại,
Tất cả đều vô thường.
Những ai muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Hoặc ở trong hiện tại,
Nên quán sát pháp Không.
Nếu người muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Cùng chư Phật hiện tại,
Nên quán pháp vô ngã.
Trong thân thể này không có ngã, không thọ mạng, không chúng sanh, không tạo tác, cũng không có hình dáng, không có người giáo hóa, không có người được giáo hóa, tất cả các pháp đều rỗng rang vắng lặng, vậy cái gì là ngã? Ngã vốn không có chủ. Ta nên trở về nương tựa tánh không.”20
Thế rồi, Tôn giả Tu-bồ-đề quay trở lại ngồi vá y.
[0708a02] Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc hóa làm Chuyển Luân Thánh vương, đem theo bảy báu đến cung đón Thế Tôn.
Từ xa, năm vị quốc vương thấy Chuyển Luân Thánh vương đến, thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng, liền nói với nhau:
– Thật là vi diệu! Thật là đặc thù! Thế gian xuất hiện hai loại báu quý: Như Lai và Chuyển Luân Thánh vương.
Bấy giờ, Thế Tôn cùng nhiều vạn cư dân cõi trời, từ đỉnh núi Tu-di bước xuống bên hồ nước. Khi chân của Thế Tôn vừa chạm đất, ba ngàn đại thiên thế giới này sáu phen rung động. Khi ấy, hóa thân Chuyển Luân Thánh vương dần dần tiến đến trước Thế Tôn. Quốc vương các nước nhỏ và dân chúng đều tránh ra. Khi gần đến trước Thế Tôn, hóa thân Chuyển Luân Thánh vương liền trở lại hình hài như cũ, thành Tỳ-kheo-ni cúi lạy sát chân Thế Tôn. Thấy vậy, cả năm vị vua than thở với nhau:
– Hôm nay, chúng ta thật là sơ suất. Đáng lẽ chúng ta được diện kiến Như Lai trước, nhưng Tỳ-kheo-ni này đã gặp Như Lai trước rồi.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni đến chỗ Thế Tôn cúi lạy sát chân, bạch Phật:
– Kính lễ đấng Tối Thắng! Hôm nay, con được thăm viếng Ngài đầu tiên.
Con là Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc, đệ tử của Như Lai.
Bấy giờ, Thế Tôn dùng kệ bảo Liên Hoa Sắc:
Thiện Nghiệp21 đã lễ Ta,
Không ai trước hơn được,
Cửa giải thoát Không, vô,
Ðây là nghĩa lễ Phật.
Những ai muốn lễ Phật,
Tương lai và quá khứ,
Nên quán pháp Không, vô,
Ðây là nghĩa lễ Phật.
Khi ấy, năm vua và dân chúng đông không thể tính kể đều đến chỗ Thế Tôn tự xưng tên: Con là Ba-tư-nặc, vua nước Ca-thi; con là vua nước Bạt-kỳ tên là Ưu-điền; con là vua của dân chúng Ngũ Đô tên là Ác Sanh; con là Vua Nam Hải tên là Ưu-đà-diên; con là Vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt.
Bấy giờ, mười một na-do-tha22 dân chúng tập hợp cùng các bậc trưởng thượng được tôn trọng nhất của bốn bộ chúng gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân rồi đứng sang một bên.
Vua Ưu-điền hai tay thỉnh tượng Ngưu Đầu chiên-đàn, hướng về Như Lai nói bài kệ:
Con xin kính hỏi Ngài,
Đấng Từ Bi Cứu Độ,
Người tạo hình tượng Phật,
Được phước quả ra sao?
[0708b02] Ðức Thế Tôn cũng dùng kệ đáp:
Như Lai giảng sơ lược,
Phước quả của thế nhân,
Đúc tạo hình tượng Phật,
Ðại vương hãy lắng nghe.
Nhờ phước tạo tượng Phật,
Mắt bất hoại muôn đời,
Về sau được mắt trời,
Phân tỏ mọi thiện, ác.
Nhờ phước tạo tượng Phật,
Sáu căn luôn vẹn toàn,
Tâm chánh, không mê loạn,
Thế lực vượt người thường.
Nhờ phước tạo tượng Phật,
Đường ác mãi lìa xa,
Vĩnh viễn sanh cõi trời,
Làm vua trên thiên giới.
Nhờ phước tạo tượng Phật
Đức lớn chẳng nghĩ bàn,
Chẳng phước nào sánh ngang,
Tiếng thơm vang bốn biển.
– Lành thay, lành thay! Việc làm của Đại vương đem đến nhiều lợi ích, trời, người đều mong nhờ.
Bấy giờ, Vua Ưu-điền thân tâm hoan hỷ, phấn khởi tột cùng.
Thế Tôn thuyết giảng các pháp vi diệu cho bốn bộ chúng và năm vua. Ngài giảng về bố thí, về trì giới, về sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là tai họa lớn, giải thoát là nhiệm mầu.
Khi ấy, biết rõ tâm ý bốn bộ chúng đã khai mở, Thế Tôn liền thuyết pháp khổ, tập, diệt, đạo, như pháp mà chư Phật, Thế Tôn thường thuyết. Bấy giờ, hơn sáu vạn cư dân cõi trời và loài người, ngay tại chỗ ngồi sạch hết các trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, năm vua bạch Thế Tôn:
– Chốn này có phước đức vi diệu tối thắng, quả là đất thiêng, nên Như Lai mới từ cõi trời Ðâu-suất xuống đây thuyết pháp. Nay con muốn tạo dựng nơi này, khiến cho tồn tại mãi, không bị hư hoại.
Thế Tôn bảo:
– Này năm vua các ông! Hãy dựng lập một ngôi tháp23 ở chốn này để hưởng phước lâu dài không cho hư hoại.
Các vua hỏi:
– Chúng con phải xây tháp ra sao?
Bấy giờ, Thế Tôn duỗi tay phải, từ dưới đất hiện ra tháp của Như Lai Ca-diếp. Đức Phật nhìn năm vua rồi bảo:
– Muốn tạo dựng tháp thiêng nên lấy đây làm khuôn mẫu! Khi đó, năm vua cho xây dựng một tháp thiêng to lớn.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hằng sa Như Lai đời quá khứ có tùy tùng bao nhiêu, cũng như Ta hôm nay nhiều bấy nhiêu không khác. Ngay đến chư Phật, Thế Tôn trong tương lai có tùy tùng bao nhiêu, cũng như Ta hôm nay nhiều bấy nhiêu không khác. Nay kinh này được đặt tên là Du thiên pháp bổn.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, bốn bộ chúng và năm vị quốc vương nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.24
***
Chú thích:
1 Nguyên tác: Thính pháp phẩm 聽法品 (T.02. 0125.36. 0702c22).
2 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.36.1. 0702c23). Tham chiếu: A. 5.202 - III. 248.
3 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng 增 (T.02. 0125.36.2. 0703a02). Tham chiếu: Phật thuyết ôn thất tẩy dục chúng Tăng kinh 佛說溫室洗浴眾僧經 (T.16. 701. 0802c05).
4 Đắc phì bạch (得肥白): Được trắng trẻo và mập mạp. Trong quan điểm mỹ học ở Ấn Độ cổ đại, béo mập là tiêu chuẩn lý tưởng của sức khỏe và cái đẹp.
5 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.36.3. 0703a10). Tham chiếu: Thập tụng luật 十誦律 (T.23. 1435.40. 0289b28-c03); A. 5.208 - III. 250.
6 Nguyên tác: Tiên thóa (涎唾).
7 Nguyên tác: 一者除風, 二者除涎唾, 三者生藏得消, 四者口中不臭, 五者眼得清淨. Công đức thứ nhất (除風) trùng với kinh số 2 ở trên. Theo A. 5.208 - III. 250, năm công đức đó là: “Con mắt không bị ảnh hưởng, miệng không hôi thối, thần kinh vị được trong sạch, nước mật và đàm không dính vào đồ ăn, ăn thấy ngon” (HT. Thích Minh Châu dịch). Thập tụng luật 十誦律 (T.23. 1435.40. 0289b28-c03) đề cập cả 2 thể loại công đức này: Một là, miệng không đắng; hai là, miệng không hôi; ba là, ngăn gió; bốn là trừ bệnh nóng sốt; năm là, trừ bệnh về đàm. Lại có 5 lợi ích: Một là, ngăn gió; hai là, trừ nóng bức; ba là, khẩu vị tinh tế; bốn là, bảo đảm việc ăn uống; năm là, mắt sáng rõ. (一者口不苦, 二者口不臭, 三者除風, 四者除熱病, 五者除痰癊. 復有五利益: 一者除風, 二者除熱, 三者口滋味, 四者能食,五者眼明).
8 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.36.4. 0703a18).
9 Tăng. 增 (T.02. 0125.36.5. 0703b13). Du thiên pháp bổn (遊天法本), tên kinh do chính đức Phật đặt, nằm ở cuối bản kinh. Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.506. 0134a07); Tạp. 雜 (T.02. 0099.988. 0257a28); Tạp. 雜 (T.02. 0099.989. 0257b15); S. 40.10 - IV. 269.
10 Nguyên tác: Như Lai mẫu (如來母).
11 Phạm-ca-di (梵迦夷, Brahmakāyika): Cõi Phạm thiên, thuộc Sơ thiền.
12 Nguyên tác: Đàn chỉ (彈指). Theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh văn cú 妙法蓮華經文句 (T.34. 1718.10. 0142a06), “đàn chỉ” là tên gọi khác của “tùy hỷ” (彈指者, 隨喜也).
13 Ca-di quốc (迦夷國) cũng gọi là Ca-thi (迦尸, Kāsi), là một trong 16 quốc gia thời Phật, có giai đoạn là thuộc quốc của Vua Ba-tư-nặc.
14 Ưu-bát liên hoa (優鉢蓮華, uppala).
15 Như thị tam-muội (如是三昧), một loại tam-muội có thể khiến người khác làm theo ý mình.
16 Tử-ma kim (紫磨金), một loại vàng thượng hạng.
17 Cù-da-ni (拘耶尼), Phất-vu-đãi (弗于逮), Uất-đan-viết (欝單曰) là tên khác của ba cõi Tây Ngưu Hóa châu (西牛貨洲, Goyāniya hoặc Aparagoyāna), Đông Thắng Thần châu (東勝神洲, Pubbavideha) và Bắc Câu-lô châu (北俱盧洲, Uttarakuru).
18 Tăng-già-thi (僧迦尸, Sankassa), một Thánh tích đã được ngành khảo cổ Ấn Độ ngày nay xác chứng, thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ, cách thị trấn Farrukhabad khoảng 47km.
19 Ưu-bát Hoa Sắc (優鉢華色, Uppalavaṇṇā) còn được dịch nghĩa là Liên Hoa Sắc (蓮華色): Vị Tỳ-kheo-ni được tôn xưng là Thần thông đệ nhất trong chúng Tỳ-kheo-ni thời đức Phật.
20 Ngã kim quy mạng chân pháp chi tụ (我今歸命真法之聚). Theo Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.90. 0698b21), Chân pháp (真法) là tên gọi khác của tánh không. Nguyên văn: Nhất thiết pháp tánh không, thị chư Phật chân pháp (一切法性空, 是諸佛真法).
21 Thiện Nghiệp (善業) là tên gọi khác của ngài Tu-bồ-đề (須菩提, Subhūti).
22 Na-thuật (那術) tức na-do-tha (那由他, nayuta), được hiểu qua ba định mức, gồm mười vạn, một trăm vạn hoặc một ngàn vạn; nghĩa thường dùng là mười vạn.
23 Thần tự (神寺): Ngôi tháp. Theo Kinh Vua Địa Chủ, số 1, phẩm 23, tr. 245 trong tập này; Tăng. 增 (T.02. 0125.23.1. 0610c23); Kinh không có tín căn, số 7, phẩm 43, tr. 773; Tăng. 增 (T.02. 0125.43.7. 0764a10); Kinh kính lễ tháp, số 1, phẩm 50, tr. 937; Tăng. 增 (T.02. 0125.50.1. 0806b12).
24 Bản Hán, hết quyển 28.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.