Tam tạng Thánh điển PGVN 23 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Dịch tiếng Việt: TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Lúc ấy đã đến giờ, Thế Tôn đắp y, ôm bát, dẫn La-vân3 vào thành Xá-vệ khất thực.4 Khi ấy, Thế Tôn quay sang bên phải rồi bảo La-vân:
– Con hãy quán tưởng sắc là vô thường.
La-vân thưa:
– Kính vâng, bạch Thế Tôn! Sắc là vô thường.
Thế Tôn lại bảo:
– Này La-vân! Thọ,5 tưởng, hành, thức đều là vô thường.
La-vân thưa:
– Kính vâng, bạch Thế Tôn! Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.
Khi ấy, Tôn giả La-vân lại tự nghĩ: “Chắc hẳn có nhân duyên gì đây, hôm nay vừa đi vào thành khất thực, đang trên đường đi sao Thế Tôn lại trực tiếp dạy dỗ mình? Bây giờ, ta nên trở về trú xứ, không nên vào thành khất thực nữa.”
Nghĩ xong, đang đi giữa đường, Tôn giả La-vân liền quay trở về tinh xá Kỳ Hoàn, cất y bát rồi đến dưới một bóng cây, giữ thân ngay thẳng, tâm không loạn động, kiết-già tĩnh tọa, chuyên nhất tâm ý, quán niệm sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường.
Bấy giờ, Thế Tôn khất thực ở thành Xá-vệ trở về. Sau khi thọ thực xong, Thế Tôn một mình kinh hành tại tinh xá Kỳ Hoàn, lần hồi đến chỗ La-vân. Đến rồi, đức Phật bảo:
– Con hãy tu tập theo pháp quán niệm hơi thở.6 Tu tập theo pháp này thì tất cả tâm tư buồn lo đều sẽ dứt trừ. Nay con cũng phải tu tập quán tưởng bất tịnh ghê tởm. Khi đã tu tập quán tưởng bất tịnh rồi thì tất cả tham dục đều sẽ tiêu trừ. Này La-vân, nay con cần phải tu tập tâm từ. Khi đã tu tập tâm từ rồi thì mọi sân hận sẽ được tiêu trừ. Này La-vân, nay con cần phải tu tập tâm bi. Khi đã tu tập tâm bi rồi thì tất cả tâm não hại sẽ được tiêu trừ. Này La-vân, nay con cần phải tu tập tâm hỷ. Khi đã tu tập tâm hỷ rồi thì tất cả tâm ganh ghét sẽ được tiêu trừ. Này La-vân, nay con cần phải tu tập tâm xả. Khi đã tu tập tâm xả rồi thì hết thảy tâm kiêu mạn sẽ được tiêu trừ.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này với La-vân:
Chớ khởi tưởng đắm trước,
Chánh pháp luôn thực hành,
Như Hiền trí thanh danh,
Được ngợi khen khắp chốn.
Trao cho người đuốc sáng,
Xua tan màn vô minh,
Được trời, rồng quy kính,
Như thờ bậc Trưởng tôn.
Lúc ấy, Tỳ-kheo La-vân lại dùng lời kệ này thưa với Thế Tôn:
Con không khởi đắm trước,
Chánh pháp luôn thực hành,
Hạnh Hiền trí đã thành,
Đủ trí năng hầu Phật.
[0582a02] Sau khi dạy bảo xong, Thế Tôn trở về tịnh thất. Lúc ấy, Tôn giả La-vân lại suy nghĩ: “Tu tập quán niệm hơi thở như thế nào để trừ được buồn lo, không có các tưởng?” Thế rồi La-vân liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến chỗ đức Thế Tôn. Đến nơi, La-vân đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên. Một lúc sau, La-vân rời chỗ ngồi và bạch:
– Kính bạch Thế Tôn! Thực hành quán niệm hơi thở như thế nào để dứt được buồn lo, không còn các tưởng, được quả báo lớn, được vị giải thoát?
Thế Tôn bảo:
– Lành thay, lành thay, La-vân! Con có thể đối trước Như Lai, rống lên tiếng rống sư tử để hỏi nghĩa này: “Thực hành quán niệm hơi thở như thế nào để dứt được buồn lo, không còn các tưởng, được quả báo lớn, được vị giải thoát?” Này La-vân, nay con hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, Như Lai sẽ vì con mà giảng nói đầy đủ.
La-vân đáp:
– Kính vâng, thưa Thế Tôn!
Sau khi Tôn giả La-vân vâng lời, Thế Tôn liền dạy:
– Thật vậy, La-vân! Nếu có Tỳ-kheo nào thích sống nơi yên vắng, lặng lẽ không người, giữ thân ngay thẳng, tâm không loạn động, kiết-già tĩnh tọa, không khởi niệm khác, buộc tâm trên chóp mũi. Hơi thở ra dài thì biết hơi thở ra dài. Hơi thở vào dài cũng biết hơi thở vào dài. Hơi thở ra ngắn thì biết hơi thở ra ngắn. Hơi thở vào ngắn cũng biết hơi thở vào ngắn. Hơi thở ra lạnh thì biết hơi thở ra lạnh. Hơi thở vào lạnh cũng biết hơi thở vào lạnh. Hơi thở ra ấm thì biết hơi thở ra ấm. Hơi thở vào ấm cũng biết hơi thở vào ấm. Cảm nhận toàn thân, hơi thở vào, hơi thở ra, thảy đều biết rõ. Lúc có hơi thở, cũng lại biết có hơi thở. Lúc không có hơi thở cũng biết không có hơi thở. Hoặc lúc thở ra, tâm liền nhận biết: “Tôi sẽ thở ra”; hoặc khi thở vào, tâm cũng nhận biết: “Tôi sẽ thở vào.”
Như vậy, La-vân, người khéo thực hành quán niệm hơi thở sẽ không còn niệm tưởng buồn lo, sầu não, được quả báo lớn, được vị giải thoát.
Sau khi nghe Thế Tôn nói pháp vi diệu đầy đủ xong, La-vân từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, sau đó nhiễu quanh ba vòng rồi rời đi. La-vân đến dưới một bóng cây trong vườn An-đà, giữ thân ngay thẳng, tâm không loạn động, kiết- già tĩnh tọa, không khởi niệm khác, buộc tâm trên chóp mũi. Hơi thở ra dài thì biết hơi thở ra dài. Hơi thở vào dài cũng biết hơi thở vào dài. Hơi thở ra ngắn thì biết hơi thở ra ngắn. Hơi thở vào ngắn cũng biết hơi thở vào ngắn. Hơi thở ra lạnh thì biết hơi thở ra lạnh. Hơi thở vào lạnh cũng biết hơi thở vào lạnh. Hơi thở ra ấm thì biết hơi thở ra ấm. Hơi thở vào ấm cũng biết hơi thở vào ấm. Cảm nhận toàn thân, hơi thở vào, hơi thở ra, thảy đều biết rõ. Lúc có hơi thở cũng lại biết có hơi thở. Lúc không có hơi thở cũng biết không có hơi thở. Hoặc lúc thở ra, tâm liền nhận biết: “Tôi sẽ thở ra”; hoặc khi thở vào, tâm cũng nhận biết: “Tôi sẽ thở vào.”
[0582b05] Bấy giờ, La-vân tư duy quán tưởng như thế rồi, ngay đó tâm được lìa khỏi dục và các pháp bất thiện, có giác có quán, cùng với hỷ, lạc được sanh ra do sự viễn ly, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất.
Lìa bỏ giác và quán, trong tâm bình đẳng, thanh tịnh, có hỷ, lạc do định sanh, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, không giác không quán.
Lìa bỏ hỷ, an trú xả, với chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, điều mà bậc Thánh gọi là lạc trú trong xả và có chánh niệm.
Khi đã diệt trừ ưu và hỷ trước đó nên buông bỏ cả khổ và lạc, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, một trạng thái không khổ không lạc, gọi là xả niệm thanh tịnh.
La-vân nhờ sức tam-muội này nên tâm thanh tịnh không tì vết, thân thể nhu hòa, biết rõ mình từ đâu đến, nhớ rõ những việc đã làm trước kia, tự biết mọi việc trong vô lượng đời trước; hoặc biết mọi việc trong một đời, hoặc hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, vạn đời, hàng ngàn vạn đời; hoặc trong kiếp thành, kiếp hoại, vô số kiếp thành, vô số kiếp hoại, ức năm không thể tính kể, ta đã từng thọ thân tại đó, hiệu đó, tên đó, họ đó, ăn như thế, chịu khổ vui như thế, thọ mạng dài ngắn ra sao, chết chỗ kia sanh ra ở đây, chết ở đây sanh ra chỗ kia.
La-vân nhờ tam-muội này nên tâm thanh tịnh không tì vết, cũng không còn các kiết sử, quán biết được những tâm niệm mà chúng sanh khởi tưởng. La-vân lại dùng thiên nhãn thanh tịnh không tì vết, quán biết như thật các loài chúng sanh, thấy rõ có sanh ra, có chết đi; có người đẹp, có người xấu; có đường lành, có nẻo dữ; có tốt, có xấu; việc đã làm, điều đã tạo, thảy đều biết rõ. Hoặc có chúng sanh thân hành ác, miệng nói ác, tâm tạo ác, chê bai Hiền thánh, tạo ra các nghiệp tà kiến, nên sau khi qua đời, rơi ba đường ác, đọa vào địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân hành thiện, miệng nói thiện, tâm hành thiện, không chê bai Hiền thánh, thường hành chánh kiến, tạo hạnh chánh kiến, nên sau khi qua đời được sanh lên cõi trời. Đó gọi là dùng thiên nhãn thanh tịnh không tì vết, quán biết như thật các loài chúng sanh, thấy rõ có sanh ra, có chết đi; có người đẹp, có người xấu; có đường lành, có nẻo dữ; có tốt, có xấu; việc đã làm, điều đã tạo, thảy đều biết rõ.
Rồi lại vận dụng tâm ý, thành tựu tâm vô lậu, La-vân lại quán sát đây là khổ, như thật biết rõ đây là khổ; lại quán sát nguyên nhân của khổ, quán sát sự diệt hết khổ và quán sát con đường đưa đến sự diệt hết khổ, biết một cách như thật về chúng. La-vân quán sát như vậy rồi, tâm dục lậu được giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu đều được giải thoát. Đã được giải thoát rồi, liền được trí giải thoát, thầy ấy biết như thật rằng: “Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.” Bấy giờ, Tôn giả La-vân thành A-la-hán.
[0582c05] Sau khi chứng quả A-la-hán rồi, Tôn giả La-vân liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên rồi bạch Thế Tôn:
– Thưa Thế Tôn! Điều con mong cầu nay đã thành tựu, các lậu đã dứt sạch.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Trong chúng đệ tử chứng A-la-hán, không ai sánh bằng La-vân. Luận về chúng đệ tử đã dứt sạch hữu lậu, cũng không ai sánh bằng Tỳ-kheo La-vân. Nói đến chúng đệ tử nghiêm trì giới luật, cũng không ai sánh bằng Tỳ-kheo La-vân. Vì sao như vậy? Vì các đấng Như Lai, Đẳng Chánh Giác ở đời quá khứ cũng có Tỳ-kheo La-vân này. Muốn nói đến con Phật cũng là Tỳ-kheo La-vân, đích thân từ Phật sanh, là người thừa tự pháp.
Khi ấy, đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
– Trong hàng đệ tử Thanh văn của Như Lai, người trì giới bậc nhất chính là Tỳ-kheo La-vân.7
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Giữ giới luật trọn vẹn,
Làm tịch tịnh các căn,
Tất cả các kiết sử,
Dần dần sẽ tiêu trừ.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.8
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu hai người này mà xuất hiện ở đời thì rất hiếm có. Hai người ấy là ai? Đó là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời thật là hiếm có, và Chuyển Luân Thánh vương xuất hiện ở đời cũng rất hiếm có. Hai người này mà xuất hiện ở đời thì quả thật hiếm có.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu hai người này mà xuất hiện ở đời thì rất hiếm có. Hai người ấy là ai? Đó là bậc Độc giác11 xuất hiện ở đời thì rất hiếm có và bậc A-la-hán đệ tử của Như Lai đã dứt sạch các lậu xuất hiện ở đời cũng rất hiếm có. Này các Tỳ-kheo, hai hạng người này xuất hiện ở đời thì quả thật hiếm có.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu có hai pháp này xuất hiện ở thế gian thì gây ra rất nhiều phiền não. Đó là hai pháp nào? Thứ nhất là pháp tạo mầm mống cho những việc ác, sanh khởi các oán thù. Thứ hai là pháp không gieo trồng hạnh lành và cội nguồn của những phước đức. Này các Tỳ-kheo, nếu có hai pháp này thì gây ra rất nhiều phiền não.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Phải nhận biết rõ pháp gây nên phiền não, cũng nên biết rõ pháp không gây phiền não. Các pháp gây phiền não thì phải khéo đoạn trừ, pháp không gây phiền não thì phải nhớ tu tập.
Như vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Những tà kiến mà chúng sanh nhớ nghĩ, hướng đến, cùng những việc làm khác, tất cả đều không có gì đáng quý, là những điều mà người thế gian không nên ham thích. Vì sao vậy? Vì tà kiến này là bất thiện.
Giống như hạt của các loại quả đắng, như là quả mướp đắng, hạt sâm đắng, hạt cây đình lịch,14 hạt tất-địa-bàn-trì, cho đến các loại hạt cây đắng khác, dù nó được gieo trồng ở vùng đất tốt thì vẫn sanh trưởng mầm đắng như xưa. Vì sao vậy? Vì bản chất của hạt ấy vốn đắng. Chúng sanh tà kiến này cũng như vậy. Những nghiệp từ thân, miệng, ý mà họ gây tạo; những gì họ hướng đến, những gì họ nhớ nghĩ, cho đến những nghiệp ác mà họ đã làm, tất cả đều không đáng quý, là những điều mà người thế gian không nên ham thích. Vì sao vậy? Vì tà kiến này là xấu ác, là bất thiện.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy dứt trừ tà kiến, tu tập chánh kiến.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Những chánh kiến mà chúng sanh nhớ nghĩ, hướng đến, cùng những việc làm khác, tất cả đều rất đáng quý, là những điều mà người thế gian đáng ham thích. Vì sao vậy? Vì chánh kiến này là cao đẹp. Giống như các loại quả có vị ngọt, như là cây mía, quả nho, cho đến tất cả loại quả có vị ngon ngọt khác. Nếu có người vun xới vùng đất tốt, rồi đem nó gieo trồng thì về sau sẽ cho ra những loại cây mà quả của chúng thảy đều ngon ngọt, khiến mọi người đều ưa thích. Vì sao vậy? Vì những hạt quả này vốn là ngon ngọt. Chúng sanh chánh kiến này cũng như vậy. Những gì họ nhớ nghĩ, hướng đến, cùng những việc làm khác của họ, tất cả đều đáng quý kính, là những điều mà người thế gian đáng ưa thích. Vì sao vậy? Vì chánh kiến này là cao đẹp. Cho nên, này các Tỳ-kheo! Hãy tu tập chánh kiến.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở nơi yên vắng, một mình tư duy, suy nghĩ như vầy: “Có những chúng sanh khởi niệm tưởng ái dục, ắt sẽ sanh dục ái, rồi ngày đêm huân tập thêm, không biết nhàm chán.”
Bấy giờ trời đã gần tối, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đi đến chỗ Thế Tôn. Đến nơi, đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên, sau đó A-nan bạch Thế Tôn:
– Thưa Thế Tôn! Khi ở nơi yên vắng, con có suy nghĩ như vầy: “Có những chúng sanh khởi tưởng ái dục, liền sanh dục ái, rồi ngày đêm huân tập thêm, không biết nhàm chán.”
Thế Tôn bảo:
– Thật vậy, A-nan! Đúng như những gì thầy nói: “Có những chúng sanh khởi tưởng ái dục, sẽ sanh dục ái, rồi ngày đêm huân tập thêm, không biết nhàm chán.” Vì sao vậy? Này A-nan, xưa kia có vị Chuyển Luân Thánh vương tên là Đảnh Sanh,17 luôn dùng giáo pháp để trị vì và giáo hóa dân chúng, không hề dối trá, thành tựu bảy báu, đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Vua lại có ngàn người con dũng mãnh cường tráng có thể hàng phục các kẻ ác, thống lãnh thiên hạ khắp bốn châu mà không cần đến binh đao. A-nan nên biết, bấy giờ Thánh vương Đảnh Sanh bèn khởi niệm: “Nay ta đã có cõi Diêm-phù-đề này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Ta cũng từng nghe các vị niên trưởng kỳ cựu nói: ‘Phía Tây có nước Cù- da-ni,18 nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều.’ Nay ta phải đến thống lãnh đất nước ấy.”
Thế rồi, này A-nan, Vua Đảnh Sanh vừa nảy sanh ý niệm như vậy, liền thống lãnh bốn bộ binh, rời đất Diêm-phù, đi qua nước Cù-da-ni.
[0583c06] Bấy giờ, dân chúng nước kia thấy Thánh vương đến, tất cả đều ra trước nghinh đón, quỳ lạy thưa hỏi: “Lành thay, Đại vương! Nay dân chúng nước Cù-da-ni này thịnh vượng, kính mong Thánh vương lưu lại nơi này để trị vì và giáo hóa dân chúng, khiến thuận theo giáo pháp.”
Này A-nan, bấy giờ Thánh vương Đảnh Sanh liền tiếp nhận thống lãnh dân chúng nước Cù-da-ni trải qua hàng trăm ngàn năm. Một thời gian sau, Thánh vương Đảnh Sanh ấy lại thầm suy nghĩ: “Ta có Diêm-phù-đề, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay lại có lãnh thổ Cù-da-ni này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Ta cũng từng nghe các vị niên trưởng nói: ‘Còn có lãnh thổ Phất-vu-đãi,19 nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều.’ Nay ta nên đến thống lãnh đất nước ấy, dùng pháp để trị vì và giáo hóa.”
Này A-nan, lúc đó Thánh vương Đảnh Sanh vừa nảy sanh ý niệm như vậy, liền dẫn bốn bộ binh rời Cù-da-ni sang nước Phất-vu-đãi.
Khi ấy, dân chúng đất nước kia trông thấy Thánh vương đến, thảy đều ra trước nghinh đón, quỳ lạy thưa hỏi và đồng thanh nói: “Quý thay, Đại vương! Nay nước Phất-vu-đãi này nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, kính xin Đại vương lưu lại nơi này để trị vì và giáo hóa dân chúng, khiến thuận theo giáo pháp.”
Này A-nan, bấy giờ Thánh vương Đảnh Sanh liền tiếp nhận thống lãnh dân chúng đất nước Phất-vu-đãi, trải qua trăm ngàn vạn năm. Rồi lúc khác, Thánh vương Đảnh Sanh thầm nghĩ: “Ta ở Diêm-phù-đề, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay lại có lãnh thổ Cù-da-ni này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Giờ lại có thêm nước Phất-vu-đãi này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Ta cũng từng nghe những vị niên trưởng kỳ cựu nói: ‘Còn có đất nước Uất-đan-việt, dân chúng ở đó đông đúc, châu báu cũng nhiều, đi lại tự do, không cần phòng thủ, thọ mạng không yểu, tuổi thọ lên đến ngàn năm. Thọ mạng nơi này hết, sẽ được sanh lên trời, không đọa vào đường khác, mặc áo kiếp-ba-dục,20 ăn loại lúa gạo tự nhiên.’ Nay ta nên đến thống lãnh quốc độ kia, dùng giáo pháp để trị vì và giáo hóa dân chúng.”
[0584a03] Này A-nan, bấy giờ Thánh vương Đảnh Sanh vừa nảy sanh ý niệm như vậy, liền dẫn bốn bộ binh rời Phất-vu-đãi, sang nước Uất-đan-việt. Từ xa, nhìn thấy đất nước ấy màu xanh tươi tốt, vua liền hỏi quần thần tùy tùng:
“Các khanh có thấy khắp vùng đất này một màu xanh tươi tốt chăng?”
Quần thần đáp:
“Vâng, chúng thần có thấy!”
Thánh vương lại nói với quần thần:
“Cỏ ở đây cũng mềm mại, mịn màng không khác áo chư thiên. Các Hiền thánh ở đây thường ngồi trên cỏ này.”
Tiến về phía trước một đoạn, xa thấy vùng đất này có ánh lên màu vàng rực, Thánh vương liền hỏi quần thần:
“Các khanh có thấy khắp vùng đất phía trước có một màu vàng sáng rực không?”
Quần thần thưa:
“Chúng thần đều thấy!”
Đại vương nói:
“Đây gọi là lúa gạo tự nhiên. Những người hiền đức ở đây thường ăn thức ăn này. Nay các khanh cũng được ăn loại lúa gạo này.”
Bấy giờ, Thánh vương tiến về phía trước một đoạn, lại thấy vùng đất ấy khắp nơi đều bằng phẳng, xa thấy lầu đài cao lớn hiện lên vô cùng kỳ đặc. Lại hỏi quần thần:
“Các khanh có nhìn thấy khắp vùng đất phía trước bằng phẳng không?”
Quần thần thưa:
“Dạ, chúng thần đều thấy như vậy!”
Đại vương nói:
“Đó là vùng chứa áo cây kiếp-ba-dục, các khanh sẽ được mặc áo cây này.”
Này A-nan, bấy giờ dân chúng nước ấy thấy đại vương đến, đều ra trước nghinh đón, quỳ lạy thưa hỏi và đồng thanh nói:
“Quý thay, Thánh vương! Đất nước Uất-đan-việt này nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, kính xin Đại vương lưu lại đây trị vì và giáo hóa dân chúng, khiến thuận theo giáo pháp.”
Này A-nan, bấy giờ Thánh vương Đảnh Sanh liền tiếp nhận thống lãnh dân chúng Uất-đan-việt, trải qua trăm ngàn vạn năm.
Rồi lần khác, Thánh vương Đảnh Sanh lại suy nghĩ: “Nay ta có đất Diêm- phù, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay lại có thêm Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cùng Uất-đan-việt này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Ta cũng từng nghe các vị niên trưởng kỳ cựu nói: ‘Còn có cõi trời Ba Mươi Ba,21 khoái lạc ở đó không đâu sánh bằng, thọ mạng rất dài, y phục và thức ăn là tự nhiên có, ngọc nữ vây quanh không thể kể xiết.’ Nay ta nên đến thống lãnh thiên cung kia, dùng pháp để trị vì và giáo hóa.”
Này A-nan! Bấy giờ, Thánh vương Đảnh Sanh vừa nảy sanh ý niệm như vậy, liền dẫn bốn bộ binh rời Uất-đan-việt, lên cõi trời Ba Mươi Ba. Lúc ấy, Thiên Đế-thích từ xa trông thấy Thánh vương Đảnh Sanh đến, liền nói:
“Quý thay, Đại vương! Mời đến đây cùng ngồi.”
Bấy giờ, Thánh vương Đảnh Sanh và Thiên Đế-thích ngồi cùng một tòa. Hai vị ngồi chung thật khó phân biệt, từ tướng mạo, cử chỉ, cho đến giọng nói, giống nhau như một, không chút khác biệt.
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Đảnh Sanh ở đó suốt hàng trăm ngàn năm. Sau đó Đảnh Sanh khởi niệm: “Nay ta có đất Diêm-phù này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều, có mưa bảy báu ngập đến đầu gối, lại có thêm Cù-da-ni, Phất-vu-đãi, Uất-đan-việt này, nhân dân thịnh vượng, châu báu lại nhiều. Ta lại đến cõi trời Ba Mươi Ba này, giờ đây ta nên hại Thiên Đế-thích, rồi ở đây một mình làm vua chư thiên.”
Này A-nan, khi vừa khởi niệm này, ngay lập tức Thánh vương Đảnh Sanh từ trên tòa rơi thẳng xuống cõi Diêm-phù-đề, bốn bộ binh cũng đều rơi xuống theo vua. Lúc này, bánh xe báu cũng mất dạng, chẳng biết ở đâu. Voi báu, ngựa báu đồng thời chết hết, châu báu tự biến mất, còn ngọc nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu, thảy đều chết cả.
[0584b15] Bấy giờ, Thánh vương Đảnh Sanh thân lâm trọng bệnh, dòng tộc thân quyến đều cùng kéo đến thăm nom bệnh tình và hỏi:
“Thưa Đại vương! Giả sử sau khi Đại vương qua đời, có người đến hỏi rằng: ‘Lúc sắp qua đời, Đại vương Đảnh Sanh có dặn dò gì không?’ Nếu hỏi như vậy thì nên trả lời thế nào?”
Thánh vương Đảnh Sanh nói:
“Nếu sau khi ta qua đời, có người hỏi như vậy thì nên trả lời rằng: ‘Vua Đảnh Sanh đã thống lãnh bốn châu thiên hạ mà còn không biết đủ, lại đến cõi trời Ba Mươi Ba, ở đó trải qua hàng trăm ngàn năm. Sau đó còn khởi tâm tham muốn hại Thiên Đế-thích, cho nên tự thân đọa lạc, chuốc lấy cái chết.’”
Này A-nan, thầy chớ hoài nghi, cũng chớ nghĩ rằng, Vua Đảnh Sanh lúc bấy giờ là người nào khác! Vì sao như vậy? Vì Vua Đảnh Sanh lúc đó chính là Như Lai đây. Khi ấy, Như Lai đã thống lãnh bốn châu thiên hạ này, lại còn đến cõi trời Ba Mươi Ba, ở trong năm dục không biết chán đủ.
Này A-nan, qua việc này đủ thấy, nếu khởi tâm tham dục, niệm tưởng ấy sẽ tăng trưởng gấp bội, không biết chán đủ đối với tham dục. Muốn cầu sự chán đủ thì phải cầu từ trong trí tuệ Thánh hiền.
Bấy giờ, ở giữa đại chúng, Thế Tôn liền nói kệ:
Lòng tham như mưa trút,
Không chán đủ với dục,
Vui ít, khổ lại nhiều,
Người trí nên đoạn dứt.
Dù hưởng dục cõi trời,
Nhạc ngũ dục vui chơi,
Đâu bằng đoạn tâm ái,
Xứng đệ tử Chí Chân.
Dẫu hưởng phước muôn đời,
Phước hết, rơi địa ngục,
Vui sướng được mấy thời,
Lại chịu khổ địa ngục.
Cho nên, này A-nan! Qua đây đủ thấy tham dục hiểm nguy, hãy mau dứt bỏ, vĩnh viễn không khởi tưởng này.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, có Bà-la-môn Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn, chào hỏi xong, ngồi qua một bên. Sau đó, Bà-la-môn bạch Thế Tôn:
– Nên xem người ác tri thức như thế nào?
Thế Tôn bảo:
– Nên xem họ như xem mặt trăng!
Bà-la-môn hỏi:
– Nên xem người thiện tri thức như thế nào?
Thế Tôn bảo:
– Nên xem họ như xem mặt trăng!
Bà-la-môn nói:
– Những gì Sa-môn Cù-đàm đang nói chỉ là lược nói những điều cốt yếu, chưa giảng rộng nghĩa lý. Kính xin Cù-đàm giảng rộng nghĩa lý, giúp người chưa hiểu được hiểu rõ!
Thế Tôn bảo:
– Này Bà-la-môn, Như Lai sẽ giảng rộng nghĩa này, ông hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Bà-la-môn thưa:
– Xin vâng, thưa Cù-đàm!
Sau khi Bà-la-môn Sanh Lậu vâng lời rồi, Thế Tôn liền dạy:
– Này Bà-la-môn, như về cuối tháng, ngày đêm xoay vần, trăng chỉ khuyết dần chứ không tròn thêm. Do trăng khuyết dần, hoặc lại có lúc nó không hiện nữa, chẳng ai nhìn thấy. Ở đây cũng vậy, này Bà-la-môn, người ác tri thức trải qua ngày tháng, mất dần niềm tin, giới cấm, đa văn, bố thí, trí tuệ. Do họ mất hết niềm tin, giới cấm, đa văn, bố thí, trí tuệ, nên sau khi chết liền vào địa ngục. Này Bà-la-môn, nên Như Lai bảo: “Người ác tri thức như trăng về cuối tháng.”
Này Bà-la-môn, như trăng đầu tháng, qua dần ngày đêm, ánh sáng tăng dần, lần lần tròn đầy, cho đến ngày rằm, sáng tròn đầy nhất, hết thảy chúng sanh, loài nào cũng thấy. Ở đây cũng vậy, này Bà-la-môn, người thiện tri thức trải qua ngày tháng, càng vững niềm tin, giới cấm, đa văn, bố thí, trí tuệ. Chính do niềm tin, giới cấm, đa văn, bố thí, trí tuệ ngày càng lớn mạnh, nên sau khi chết họ liền sanh lên cõi trời cao đẹp. Này Bà-la-môn, nên Như Lai bảo: “Người thiện tri thức như trăng tròn đầy.”
[0585a05] Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Ai khởi nhiều tham dục,
Dẫy đầy sân hận, si,
Điều lành giảm dần đi,
Như trăng về cuối tháng.
Ai không khởi tham dục,
Dứt sạch sân hận, si,
Điều lành dần tăng thêm,
Như trăng tròn đầy, sáng.
Cho nên, này Bà-la-môn! Hãy học theo hạnh thiện tri thức, nghĩa là như trăng đầu tháng.
Bấy giờ, Bà-la-môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
– Lành thay, Cù-đàm! Giống như giúp cho người lưng gù được duỗi thẳng, người tối tăm được thấy sáng, người lạc lối được chỉ đường, trong nhà tối được thắp đèn, Sa-môn Cù-đàm đã dùng vô số phương tiện giảng nói Diệu pháp này cũng giống như vậy. Nay con xin được quy y Phật, quy y Pháp và quy y chúng Tăng. Từ nay cho phép con làm ưu-bà-tắc, suốt đời không sát sanh.23
Sau khi nghe Phật dạy xong, Bà-la-môn Sanh Lậu liền hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Như Lai sẽ nói về pháp ác tri thức và cũng sẽ nói về pháp thiện tri thức, các thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Các Tỳ-kheo thưa:
– Kính vâng, thưa Thế Tôn!
Sau khi các Tỳ-kheo vâng lời, đức Phật liền dạy:
– Thế nào gọi là pháp ác tri thức? Này Tỳ-kheo, người ác tri thức sẽ khởi niệm này: “Ta thuộc dòng hào tộc xuất gia học đạo, còn các Tỳ-kheo khác thuộc dòng ti tiện.” Họ ỷ vào dòng tộc của mình rồi chê bai người khác. Đó gọi là pháp ác tri thức.
Lại nữa, người ác tri thức lại khởi niệm này: “Ta rất siêng năng trì giới, các Tỳ-kheo khác thì không siêng năng trì giới.” Họ cậy vào điều này để chê bai người khác mà tự kiêu ngạo. Đó gọi là pháp ác tri thức.
Lại nữa, người ác tri thức cũng tự nghĩ: “Ta thành tựu thiền định, các Tỳ- kheo khác chưa thành tựu thiền định, tâm ý loạn động không chút định tĩnh.” Họ ỷ vào thiền định này, thường tự kiêu ngạo, chê bai người khác, gọi là pháp ác tri thức.
[0585b02] Lại nữa, người ác tri thức đã tự nghĩ: “Ta trí tuệ bậc nhất, các Tỳ-kheo khác không có trí tuệ.” Họ ỷ vào trí tuệ này, thường tự kiêu ngạo, hủy báng người khác. Đó gọi là pháp ác tri thức.
Lại nữa, người ác tri thức đã tự nghĩ: “Ta thường được thức ăn, giường đệm, ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh, còn những Tỳ-kheo khác thì không được các vật cúng dường này.” Họ ỷ vào vật dụng được cúng dường này mà tự kiêu ngạo, chê bai người khác. Đó gọi là pháp ác tri thức.
Do vậy, Tỳ-kheo! Người ác tri thức thực hành tà nghiệp như vậy.
Thế nào gọi là pháp thiện tri thức? Này các Tỳ-kheo, bậc thiện tri thức sẽ không tự nghĩ: “Ta thuộc dòng hào tộc, còn các Tỳ-kheo khác không thuộc dòng hào tộc.” Luôn nhận thấy bản thân mình và người không có gì khác biệt. Đó gọi là pháp thiện tri thức.
Lại nữa, người thiện tri thức sẽ không tự nghĩ: “Nay ta trì giới, còn các Tỳ- kheo khác không giữ giới hạnh.” Vì họ nhận thấy mình và người không gì khác nhau. Người ấy hành trì theo giới này, không tự kiêu ngạo, không chê bai người khác. Đó gọi là pháp thiện tri thức.
Lại nữa, người thiện tri thức không tự nghĩ rằng: “Ta thành tựu thiền định, còn các Tỳ-kheo khác thì loạn động không định tĩnh.” Vì họ nhận thấy mình và người không hề khác nhau. Người ấy nương vào thiền định này, không tự kiêu ngạo, cũng không chê bai người khác. Đó gọi là pháp thiện tri thức.
Lại nữa, Tỳ-kheo, người thiện tri thức cũng không tự nghĩ: “Ta thành tựu trí tuệ, còn các Tỳ-kheo khác không có trí tuệ.” Vì họ nhận thấy mình và người không gì khác biệt. Người ấy nương vào trí tuệ này, không tự kiêu ngạo, cũng không chê bai người khác. Này Tỳ-kheo, đó gọi là pháp thiện tri thức.
Lại nữa, Tỳ-kheo, người thiện tri thức không tự cho rằng: “Ta có thể được y phục, thức ăn, giường đệm, ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh, còn các Tỳ-kheo khác thì không thể được y phục, thức ăn, giường đệm, ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh.” Họ nhận thấy mình và người không gì khác biệt. Người ấy nương vào những lợi dưỡng này nhưng không tự kiêu ngạo, cũng không chê bai người khác. Này Tỳ-kheo, đó gọi là pháp thiện tri thức.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Như Lai đã phân biệt rõ cho các thầy về pháp ác tri thức và pháp thiện tri thức. Cho nên, này các Tỳ-kheo! Hãy tránh xa pháp ác tri thức và luôn nhớ tu tập theo pháp thiện tri thức.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
[0585c02] Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo ngụ tại vườn Ni-câu-lưu26 thuộc thành Ca-tỳ-la-vệ.27
Bấy giờ, trong nước này có hơn năm trăm người hào quý thuộc dòng họ Thích, có điều muốn bàn luận nên tập hợp tại giảng đường Phổ Nghĩa.28 Lúc ấy, Bà-la-môn Thế Điển đến chỗ những người họ Thích kia, nói với họ rằng:
– Thế nào các vị, trong đây có Sa-môn, Bà-la-môn, hay người thế tục nào có thể cùng luận nghị với tôi không?
Bấy giờ, rất nhiều người họ Thích nói với Bà-la-môn Thế Điển:
– Hiện nay, trong nước Ca-tỳ-la-vệ29 này có hai người tài cao học rộng. Hai người này là ai? Một là, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc; hai là, Cù-đàm họ Thích, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Người mà trong chúng ít được nghe đến là hạng không có trí tuệ, nói năng vụng về, không phân biệt được đến hay đi, cần buông bỏ hay nên nắm giữ,30 như là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc. Còn một người nữa mà trong cả nước Ca-tỳ-la-vệ này không ai biết đến, không ai nghe danh, cũng không thông minh trí tuệ, lại còn quê mùa xấu xí, như Ngài Cù-đàm. Nay ông có thể luận nghị cùng hai người này. Nếu như Bà-la-môn ông có thể luận nghị thắng được họ thì hơn năm trăm người chúng tôi đây sẽ tùy thời cúng dường ông mọi thứ cần dùng, cũng sẽ biếu tặng một ngàn lượng vàng ròng.
Bấy giờ, Bà-la-môn kia liền suy nghĩ: “Những người dòng họ Thích ở Ca- tỳ-la-vệ này đều thông minh, có nhiều kỹ xảo, gian trá giả dối, không được ngay thẳng. Nếu ta luận nghị với hai người kia mà thắng thì đâu có gì lạ thường. Còn nếu họ thắng ta, tức là ta bị người ngu chiết phục. Nghĩ đến hai điều này, ta không chấp nhận cùng họ luận nghị.” Thầm nghĩ vậy rồi, Bà-la-môn liền thoái lui ra về.
Khi ấy, đúng giờ Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc ôm bát vào thành Ca-tỳ-la-vệ khất thực. Lúc này, Bà-la-môn Thế Điển từ xa trông thấy Tỳ-kheo Châu-lợi- bàn-đặc đi đến, liền suy nghĩ: “Ta nên đến hỏi nghĩa với người kia.” Rồi Bà-la- môn Thế Điển đi đến chỗ Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc hỏi:
– Sa-môn tên gì?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc nói:
– Hãy thôi đi, Bà-la-môn! Ông hỏi tên làm gì? Sở dĩ ông đến đây là muốn hỏi nghĩa, giờ hãy hỏi đi!
[0586a01] Bà-la-môn nói:
– Sa-môn có thể luận nghị cùng tôi không?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc nói:
– Ta còn có thể luận nghị với Phạm thiên, huống gì với người mù không có mắt như ông.
Bà-la-môn nói:
– Người mù chẳng phải là người không có mắt ư? Không có mắt tức chẳng phải là mù sao? Đây chỉ là một nghĩa, đâu cần lặp lại phiền phức?
Bấy giờ, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc liền phi thân lên hư không, hiện ra mười tám cách biến hóa. Lúc này, Bà-la-môn kia thầm nghĩ: “Vị Sa-môn này chỉ có thần túc, không biết luận nghị. Nếu ai giải rõ nghĩa này cho ta, ta sẽ làm đệ tử người ấy.”
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất dùng thiên nhĩ nghe được những lời thách thức luận nghị giữa Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc với Bà-la-môn Thế Điển, nên Tôn giả Xá-lợi-phất liền biến thân mình thành Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, rồi làm ẩn hình Châu-lợi-bàn-đặc, không để lộ ra và nói với Bà-la-môn:
– Này Bà-la-môn! Nếu ông cho rằng: “Sa-môn này chỉ có thần túc, không biết luận nghị” vậy thì bây giờ ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ nói rõ, sẽ trả lời nghĩa lý mà ông vừa hỏi, căn cứ vào trọng tâm của vấn đề nghị luận này sẽ dẫn dụ thêm. Này Bà-la-môn, ông tên là gì?
Bà-la-môn đáp:
– Tôi tên Phạm Thiên.
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc hỏi:
– Ông là đàn ông phải không?
Bà-la-môn đáp:
– Tôi là đàn ông.
Lại hỏi:
– Ông là người phải không?
Bà-la-môn đáp:
– Là người.
Châu-lợi-bàn-đặc hỏi:
– Thế nào, Bà-la-môn, đàn ông cũng là người, người cũng là đàn ông, đây cũng là một nghĩa, há chẳng phải là lặp lại phiền phức sao? Tuy nhiên, này Bà- la-môn, mù và không có mắt, nghĩa này không giống nhau.
Bà-la-môn hỏi:
– Sa-môn, thế nào gọi là mù?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
– Giống như không thấy rõ đời này đời sau; người sanh ra, kẻ chết đi; người đẹp, kẻ xấu; người thiện, kẻ ác; cho đến không biết đúng như thật những việc thiện hoặc ác mà chúng sanh đã tạo, mãi mãi không nhận thấy được thì gọi đó là mù.
Bà-la-môn hỏi tiếp:
– Thế nào là người không có mắt?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
– Mắt chính là con mắt trí tuệ vô thượng. Vì người kia không có mắt trí tuệ vô thượng này nên gọi là không có mắt.
Bà-la-môn nói:
– Thôi, thôi, Sa-môn! Hãy thôi luận bàn tạp loạn. Nay tôi muốn hỏi nghĩa lý sâu rộng. Thế nào, Sa-môn! Liệu có trường hợp nào không nương vào pháp mà được Niết-bàn chăng?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
– Có, đó là không nương vào năm thủ uẩn mà được Niết-bàn!
Bà-la-môn hỏi:
– Thế nào, Sa-môn! Năm thủ uẩn này là do duyên mà sanh hay không phải do duyên mà sanh?
[0586b01] Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
– Năm thủ uẩn này là do duyên mà sanh, chứ chẳng phải không do duyên mà sanh.
Bà-la-môn hỏi:
– Duyên của năm thủ uẩn là gì?
Tỳ-kheo Bàn-đặc đáp:
– Đó là ái.
– Thế nào là ái?
– Ái chính là sanh.
– Thế nào là sanh?
– Sanh chính là ái.
– Có con đường nào dẫn đến diệt tận ái không?
– Đó là tám đạo phẩm của bậc Hiền thánh, gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Đó gọi là tám đạo phẩm của bậc Hiền thánh.
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc nói pháp tường tận cho Bà-la-môn rồi. Sau khi Bà-la-môn được nghe giáo pháp từ Tỳ-kheo Bàn-đặc nói, mọi phiền não đều dứt sạch, liền được Pháp nhãn tịnh. Ngay lúc đó, trong thân ông ta khởi lên ngọn gió bén như dao kiếm nên ông ấy qua đời.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất trở lại nguyên hình, bay trong hư không, trở về trụ xứ. Khi ấy, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đến giảng đường Phổ Nghĩa,31 nơi những người dòng họ Thích đang tụ họp, nói với họ:
– Mọi người hãy nhanh chóng sửa soạn bơ, dầu, củi đuốc, đem đến trà-tỳ Bà-la-môn Thế Điển.
Bấy giờ, những người dòng họ Thích liền sửa soạn bơ, dầu, củi đuốc mang đến trà-tỳ Bà-la-môn Thế Điển và xây tháp ở ngã tư đường để phụng thờ. Sau đó, họ cùng nhau đến chỗ Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên và đồng hướng về Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc mà nói kệ:
Đã trà-tỳ, dựng tháp,
Như lời Tôn giả dạy,
Chúng con được lợi lớn,
Nhờ gặp việc phước này.
Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc dùng kệ đáp lại:
Chuyển pháp luân cao xa,
Hàng phục các ngoại đạo,
Trí tuệ như biển cả,
Đến nhiếp phục Phạm chí.
Việc thiện, ác đã làm,
Khứ, lai và hiện tại,
Muôn kiếp không hề phai,
Thế nên cần tạo phước.
Sau khi nghe Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc giảng rộng giáo pháp, những người dòng họ Thích đồng thanh thưa:
– Nếu Tôn giả cần y phục, đồ ăn thức uống, chăn giường ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh, chúng con xin được cúng dường tất cả. Ngưỡng mong Tôn giả nhận lời thỉnh cầu này, chớ từ chối nguyện vọng nhỏ nhoi của chúng con.
Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc im lặng nhận lời.
Những người dòng họ Thích nghe Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo ngụ tại Ca-lan-đà, trong Trúc Lâm, thuộc thành La-duyệt.
Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Vương tử Bà-la-lưu-chi33 và nói với vương tử:
– Xưa kia, thọ mạng con người rất dài, nhưng nay tuổi thọ còn không quá một trăm. Vương tử nên biết, mạng người vô thường, nếu chưa kịp lên ngôi vua, giữa chừng đã đoản mạng thì chẳng phải nuối tiếc lắm sao? Vậy nên, ngay lúc này Vương tử phải ra tay sát hại phụ vương để thống lãnh muôn dân, còn tôi sẽ giết Sa-môn Cù-đàm để trở thành Vô Thượng Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Chúng ta sẽ là vua mới, Phật mới ở đất nước Ma-kiệt này, khác nào mặt trời xuyên qua mây, chiếu soi khắp chốn, ánh trăng không gợn mây, rực sáng giữa ngàn sao, thế không khoái thích lắm sao?
Nghe vậy, Vương tử Bà-la-lưu-chi liền bắt phụ vương giam vào ngục sắt, lập quần thần mới, thống lãnh dân chúng.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vào thành La-duyệt khất thực, nghe tin Đề-bà-đạt-đa xúi giục vương tử giam phụ vương vào ngục sắt, lập quần thần mới. Sau khi các Tỳ-kheo khất thực xong, trở về trụ xứ, thu dọn y bát, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân rồi bạch Thế Tôn:
– Sáng nay chúng con vào thành khất thực, nghe tin Đề-bà-đạt-đa xúi giục vương tử bắt giam phụ vương vào ngục sắt, lập quần thần mới. Ông ấy đã nói với vương tử: “Ông giết phụ vương, ta hại Như Lai. Làm vua mới, Phật mới ở nước Ma-kiệt này chẳng thích sao?”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu vua cai trị mà không dùng chánh lý, bấy giờ cận thần sẽ làm điều phi pháp. Cận thần đã làm điều phi pháp thì vương thái tử cũng làm điều phi pháp. Vương thái tử đã làm điều phi pháp thì quần thần, quan lớn cũng làm điều phi pháp. Quần thần, quan lớn đã làm điều phi pháp thì dân chúng trong nước cũng làm điều phi pháp. Dân chúng trong nước đã làm điều phi pháp thì quân đội, binh lính cũng làm điều phi pháp. Quân đội, binh lính đã làm điều phi pháp thì mặt trời, mặt trăng đảo lộn, chuyển vận không đúng thời. Mặt trời, mặt trăng đã đảo lộn, chuyển vận không đúng thời thì không có năm, tháng. Đã không có năm, tháng thì ngày, tháng sai lệch, không còn chính xác rõ ràng. Ngày, tháng đã không còn chính xác rõ ràng nên lúc này tinh tú hiện ra kỳ quái. Tinh tú đã hiện ra kỳ quái ắt sẽ có gió bão nổi lên. Đã có gió bão nổi lên thì chư thần linh giận dữ. Các thần linh đã giận dữ thì dẫn đến mưa, gió thất thường, tất cả lúa, ngô, hoa màu không tăng trưởng, con người và các loài động vật bò, bay, máy, cựa, cũng thay đổi sắc diện, tuổi thọ rút ngắn.
[0587a02] Còn nếu có vị vua cai trị theo Chánh pháp thì cận thần cũng thực hành theo Chánh pháp. Cận thần đã thực hành theo Chánh pháp thì vương thái tử cũng thực hành theo Chánh pháp. Vương thái tử đã thực hành theo Chánh pháp thì quan lại cũng thực hành theo Chánh pháp. Quan lại đã thực hành theo Chánh pháp thì muôn dân trong nước cũng thực hành theo Chánh pháp. Mặt trời, mặt trăng thuận lẽ thường; gió, mưa đúng thời, không có hiện tượng quái dị, thần linh hoan hỷ; lúa, ngô được mùa; vua tôi hòa kính xem nhau như anh em, trước sau không thay đổi. Con người và loài vật được sắc diện tươi vui, thức ăn tự tiêu hóa, không có tai họa, tuổi thọ rất dài, được người yêu kính.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Như đàn bò lội sông,
Con đầu đi chệch hướng,
Cả đàn đều sai hướng,
Cốt do sự dẫn đường.
Trong loài người cũng vậy,
Người dẫn dắt muôn dân,
Còn làm điều xằng bậy,
Trách chi hạng dân thường.
Muôn dân chịu khổ, nghèo,
Bởi phép nước bất minh,
Vua làm điều bất chính,
Dân chúng cũng làm theo.
Như đàn bò qua sông,
Con đầu không chệch hướng,
Cả đàn sẽ đúng hướng,
Cốt do sự dẫn đường.
Trong loài người cũng vậy,
Người dẫn dắt muôn dân,
Không làm điều xằng bậy,
Lo chi hạng bình dân.
Dân chúng thoát khổ, nghèo,
Nhờ phép nước anh minh,
Vua làm điều chân chánh,
Nên dân chúng noi theo.
Cho nên, này các Tỳ-kheo! Hãy từ bỏ việc phi pháp, thực hành theo Chánh pháp.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe đức Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.34
Chú thích
1 Nguyên tác: An-ban phẩm 安般品 (T.02. 0125.17. 0581b29). An-ban (安般, ānāpāna) nghĩa là theo dõi hơi thở vào ra, tức quán niệm hơi thở.
2 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.1. 0581c01). Tham chiếu: M. 62, Mahārāhulovāda Sutta (Đại kinh giáo giới La-hầu-la).
3 Còn gọi là La-hầu-la (Rāhula).
4 Nguyên tác: Phân-vệ (分衛, piṇḍāya): Khất thực.
5 Nguyên tác: Thống (痛): Đau đớn.
6 Nguyên tác: An-ban (安般, ānāpāna). Xem chú thích 1, tr. 145.
7 Nguyên tác: Ngã Thanh văn trung đệ nhất đệ tử, năng trì cấm giới, sở vị La-vân Tỳ-kheo thị (我聲聞中第一弟子能持禁戒, 所謂羅雲比丘是). Tham chiếu: Kinh số 6, phẩm 4, tr. 38; Tăng. 增 (T.02. 0125.4.6. 0558a07): 我聲聞中第一比丘... 不毀禁戒, 誦讀不懈, 所謂羅雲比丘是. Ở đây, giữa hai nghĩa 能持禁戒 và 不毀禁戒 của hai bản Kinh Tăng nhất A-hàm nêu trên về cơ bản không quá khác biệt nhau. Trong khi đó ghi nhận về bậc thầy giới luật là ngài Ưu-ba-ly thì kinh số 5, phẩm 4, tr. 37; Tăng. 增 (T.02. 0125.4.5. 0557c16) lại ghi: 奉持戒律, 無所觸犯, 優波離比丘是. Như vậy, nội dung Tăng nhất A-hàm chưa minh định rõ sự khác biệt về phương diện giới luật giữa ngài Ưu-ba-ly và Tôn giả La-hầu-la, nếu không nói dường như quá đề cao ngài La-hầu-la qua bài kinh này. Trong khi đó ở A. 1.14 - I. 24 thì ghi nhận: “Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, ưa thích học tập, tối thắng là Rāhula” (Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ sikkhākāmānaṃ yadidaṃ rāhulo) và A. 1.14 - I. 24 cũng ghi: “Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, vị trì luật tối thắng là Upāli” (Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ vinayadharānaṃ yadidaṃ upāli). Có lẽ kinh số 1, phẩm 17, tr. 145; Tăng. 增 (T.02. 0125.17.1. 0581c01) đã hiểu chữ sikkhā theo nghĩa học giới, giới luật, trong khi đó ở trường hợp của Tôn giả La-hầu-la thì chữ sikkhā cần được hiểu là sự học hỏi, học tập, rèn luyện nói chung.
8 Bản Hán, hết quyển 7.
9 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.2. 0582c26). Tham chiếu: A. 2.53 - I. 77.
10 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.3. 0583a03). Tham chiếu: A. 2.56-57 - I. 77.
11 Nguyên tác: Bích-chi Phật (辟支佛). Xem chú thích 23, phẩm Tựa, trang 9.
12 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.4. 0583a10). Tham chiếu: A. 1.17 - I. 30.
13 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.5. 0583a19). Tham chiếu: A. 1.314 - I. 31.
14 Đình lịch (葶藶), tên cây, hạt có màu vàng đen, dùng làm vị thuốc.
15 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.6. 0583b03). Tham chiếu: A. 1.315 - I. 31
16 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.7. 0583b15). Tham chiếu: Tứ châu kinh 四洲經 (T.01. 0026.60. 0494b09); Đảnh Sanh vương cố sự kinh 頂生王故事經 (T.01. 0039. 0822b12).
17 Đảnh Sanh (頂生, Muddhāvasitta).
18 Cù-đà-ni (瞿陀尼) tức Tây Ngưu Hóa châu (西牛貨洲, Goyāniya hoặc Aparagoyāna).
19 Phất-vu-đãi (弗于逮 ), ngài Huyền Trang dịch là Tỳ-đề-ha (毘提訶, Videha), tức cõi Đông Thắng Thần châu (東勝神洲, Pubbavideha).
20 Kiếp-ba-dục (劫波育, kappāsika). Phiên dịch danh nghĩa tập (T.54. 2131.7. 1172a19) định nghĩa: Kiếp-ba-dục còn gọi là “kiếp-bối” (劫貝), tức là cây bông gòn. Gọi tên đúng của cây này là ka-ba-la (kappāsa), tên gọi theo hoa của loài cây này có thể dệt thành vải (劫波育, 或言劫, 即木綿也. 正言迦波羅. 此樹華名也, 可以為布).
21 Nguyên tác: Tam Thập Tam thiên (三十三天, Tāvatiṁsa), còn gọi là cõi trời Đao-lợi (忉利), một trong 6 tầng trời cõi dục (欲界).
22 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.8. 0584c11). Tham chiếu: Hà khổ kinh何苦經 (T.01. 0026.148. 0659b15); Tạp. 雜 (T.02. 0099.94. 0025c02); Biệt Tạp. 別譯 (T.02. 0100.260. 0465b06); A. 5.31 - III. 32.
23 Nguyên tác: Tận hình thọ bất sát sanh (盡形壽不殺生). Đây là trường hợp viết tắt của 5 giới, vì vị Bà-la-môn này trong Kinh kiếp số, số 9, phẩm 50, tr. 962 trong tập này; Tăng. 增 (T.02. 0125.50.9. 0813b23) đã thọ đầy đủ 5 giới: 盡其形壽不敢復殺, 乃至飲酒.
24 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.9. 0585a18). Tham chiếu: Chân nhân kinh 真★經 (T.01. 0026.85. 0561a20); Thị pháp phi pháp kinh 是法非法經 (T.01. 0048. 0837c21); M. 113, Sappurisa Sutta (Kinh Chân nhân).
25 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.10. 0585c04).
26 Ni-câu-lưu viên (尼拘留🖃, Nigrodhārāma), vườn cây đa ở ngoài thành Ca-tỳ-la-vệ (迦毗羅衛).
27 Nguyên tác: Thích-sí (釋翅), tên gọi khác của thành Ca-tỳ-la-vệ.
28 Phổ Nghĩa giảng đường (普義講堂, Santhāgārasālā), hội trường của họ Thích.
29 Nguyên tác: Ca-tỳ-la-việt (迦毘羅越, Kapilavatthu), tức là Ca-tỳ-la-vệ.
30 Nguyên tác: Khứ tựu (去就), thành ngữ Trung Hoa, mang nghĩa tới lui hoặc lấy bỏ.
31 Bản Hán ghi nhầm là Phổ Tập giảng đường (普集講堂).
32 Tựa đề được đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.17.11. 0586c03). Tham chiếu: A. 4.70- II. 74; J. III. 334.
33 Bà-la-lưu-chi (婆羅留支, Balaruci). Xem chú thích 66, phẩm 12, tr. 97; Tăng. 增 (T.02. 0125.12.7. 0570b20).
34 Bản Hán, hết quyển 8.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.