Tam tạng Thánh điển PGVN 23 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Dịch tiếng Việt: TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
– Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành và truyền bá rộng rãi một pháp rồi, liền được thần thông, các hành tịch tĩnh,3 đắc quả Sa- môn, đến cõi Niết-bàn. Một pháp đó là gì? Đó là hạnh không buông lung. Thế nào là hạnh không buông lung? Đó là phòng hộ tâm. Thế nào là phòng hộ tâm? Nghĩa là Tỳ-kheo phải luôn phòng hộ tâm hữu lậu, pháp hữu lậu; ngay khi phòng hộ tâm hữu lậu, pháp hữu lậu, vị ấy liền được hỷ lạc nơi pháp hữu lậu, cũng được tín lạc, an trụ không dời đổi, chuyên nhất tâm ý, tự lực cố gắng như thế, này các Tỳ-kheo, tu tập hạnh không buông lung là phải luôn tự mình thận trọng; dục lậu chưa sanh thì khiến không sanh, dục lậu đã sanh liền khéo trừ diệt; hữu lậu chưa sanh thì khiến không sanh, hữu lậu đã sanh liền khéo trừ diệt; vô minh lậu chưa sanh thì khiến không sanh, vô minh lậu đã sanh liền khéo trừ diệt. Tỳ-kheo tu tập hạnh không buông lung ấy, an trú nơi vắng vẻ, hằng tự nhận biết để tự an vui, nên tâm dục lậu liền được giải thoát; tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu liền được giải thoát. Khi đã được giải thoát, liền được trí giải thoát và biết như thật rằng: “Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Không kiêu mạn, Niết-bàn,
Buông lung ắt đọa lạc,
Không ngã mạn, không đọa,
Buông lung ắt lầm than.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Phải nhớ tu tập hạnh không buông lung. Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
– Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành một pháp, truyền bá rộng rãi một pháp rồi, sẽ được thần thông, các hành tịch tĩnh, đắc quả Sa-môn, đến cõi Niết-bàn. Một pháp đó là gì? Đó là hạnh không buông lung đối với các thiện pháp. Thế nào là hạnh không buông lung? Nghĩa là không phiền nhiễu tất cả chúng sanh, không gây hại tất cả chúng sanh, không xúc não tất cả chúng sanh; đó là hạnh không buông lung. Thiện pháp ấy là gì? Đó là tám đạo phẩm của bậc Hiền thánh, gồm có: Chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tư duy, chánh niệm và chánh định.5 Đó gọi là thiện pháp.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Thí vật cho muôn loài,
Thua thí pháp một người,
Thí muôn loài có phước,
Thí pháp phước nhiều hơn.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Phải tu tập thiện pháp. Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
– Nên quán người bố thí, người thí chủ7 như thế nào?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Thế Tôn là chủ của các pháp. Kính thỉnh Thế Tôn giảng nói nghĩa này cho các Tỳ-kheo! Nghe xong, chúng con sẽ thọ trì.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Như Lai sẽ nói rộng nghĩa này, các thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Các Tỳ-kheo đáp:
– Kính vâng, thưa Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời rồi, Thế Tôn liền dạy:
– Người bố thí, người thí chủ cung kính các Tỳ-kheo giống như con cái hiếu thuận cha mẹ, nuôi dưỡng, hầu hạ, khiến cho năm uẩn được tăng trưởng, ở nơi cõi Diêm-phù-lợi mà thành tựu được mọi mục đích. Hãy quán người bố thí, người thí chủ là người khéo giúp các Tỳ-kheo thành tựu giới, thành tựu thấy nghe, thành tựu thiền định, thành tựu trí tuệ và làm nhiều lợi ích cho các Tỳ-kheo, ở trong Tam bảo không có điều gì là chướng ngại. Họ sẵn sàng cúng dường y phục, thức ăn thức uống, giường đệm, ngọa cụ, cho đến thuốc thang trị bệnh cho các Tỳ-kheo. Thế nên, này các Tỳ-kheo! Phải có tâm từ đối với người bố thí. Ân nhỏ còn chẳng quên huống là ân lớn! Hãy luôn trải tâm từ đến với người bố thí, giảng dạy cho họ về các hạnh thanh tịnh của thân, miệng, ý, vốn chẳng thể tính kể, cũng không có giới hạn. Thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, để những vật phẩm người bố thí cúng dường không bị uổng phí, giúp họ được quả báo lớn, thành tựu phước lớn, tiếng lành vang xa, khiến cho pháp vị giải thoát truyền khắp thế gian.
Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này. Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Bố thí được của nhiều,
Sở nguyện thành tựu ngay,
Vua quan hay giặc cướp,
Không đoạt được của này.
Thí để được ngôi vua,
Nối Chuyển Luân Vương vị,
Bảy báu được đủ đầy,
Là nhờ phước bố thí.
Bố thí, được thân trời,
Đội mũ châu sáng ngời,
Cùng tiên nữ dạo chơi,
Là nhờ phước bố thí.
Bố thí, thành Ðế-thích,
Vua trời oai lực đầy,
Ngàn mắt trang nghiêm mình,
Là nhờ phước bố thí.
Bố thí, Phật đạo thành,
Ðủ ba mươi hai tướng,
Chuyển pháp luân vô thượng,
Nhờ bố thí mà nên.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
– Người bố thí, người thí chủ nên phụng sự cúng dường các bậc Hiền thánh tinh tấn trì giới như thế nào?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
– Thế Tôn là vua các pháp. Kính thỉnh Thế Tôn giảng nói nghĩa này cho các Tỳ-kheo! Nghe xong, chúng con sẽ thọ trì.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Như Lai sẽ nói rộng nghĩa này, các thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Các Tỳ-kheo đáp:
– Kính vâng, thưa Thế Tôn!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời rồi, Thế Tôn liền dạy:
– Người bố thí, người thí chủ mà phụng sự, cúng dường cho các bậc đa văn, tinh tấn trì giới thì giống như người lạc lối được chỉ đường, người thiếu thốn lương thực được trợ cấp, người sợ hãi được an ổn, người hoảng loạn được trấn an, người không chốn nương thân được bảo bọc che chở, người mù được sáng mắt, người bệnh được gặp thầy thuốc giỏi. Giống như nhà nông chăm sóc ruộng vườn, phải nhổ bỏ cỏ dại mới có thể thu hoạch được thóc lúa. Cũng vậy, Tỳ-kheo thường phải diệt trừ các bệnh nơi năm thủ uẩn, quyết tâm tiến vào thành trì Niết-bàn vô úy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, người bố thí, người thí chủ thừa sự cúng dường các bậc đa văn, tinh tấn trì giới thì nên làm giống như vậy.
Lúc ấy, trưởng giả Cấp Cô Độc9 đang ở trong hội chúng, liền bạch với Thế Tôn:
– Thật vậy, bạch Thế Tôn! Thật vậy, bạch Như Lai! Tất cả thí chủ và cả người nhận đều tôn quý như bình cát tường.10 Những người nhận thí phải như Vua Tỳ-sa,11 khuyên người thực hành bố thí phải như khuyên cha mẹ ruột, bởi vì người nhận thí là ruộng phước cho họ ở đời sau. Tất cả thí chủ và người thọ nhận đều là những bậc hào quý.12
Thế Tôn bảo rằng:
– Ðúng vậy, trưởng giả! Ðúng như lời ông nói.
Trưởng giả Cấp Cô Độc lại thưa:
– Từ nay về sau, cửa nhà con sẽ không đóng kín, cũng không từ chối những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di và những người đi đường thiếu lương thực.
Lúc đó, trưởng giả lại thỉnh đức Phật:
– Kính mong Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo nhận lời thỉnh cầu của đệ tử!
Bấy giờ, Thế Tôn im lặng hứa khả. Thấy Thế Tôn im lặng nhận lời, trưởng giả liền đảnh lễ đức Phật, nhiễu quanh Thế Tôn ba vòng rồi ra về. Về đến nhà, ngay đêm đó, ông liền chuẩn bị đủ các món ăn thức uống ngon ngọt rất thịnh soạn, trải tọa cụ khắp nhà. Sáng hôm sau, ông đích thân đến bạch Phật:
– Vật thực dâng cúng đã bày biện xong, kính thỉnh Thế Tôn đúng thời quang lâm thọ thực!
Bấy giờ, Thế Tôn cùng chúng Tỳ-kheo đắp y, ôm bát đến nhà trưởng giả ở thành Xá-vệ. Ðến nơi, mỗi người ngồi vào chỗ của mình, chúng Tỳ-kheo cũng ngồi theo thứ tự. Thấy Phật và chúng Tỳ-kheo đã an định rồi, trưởng giả liền tự tay dâng cúng đồ ăn thức uống cho từng vị. Sau khi Phật và chúng Tăng thọ trai xong, thu dọn bát, trưởng giả đến ngồi chỗ thấp phía trước Thế Tôn, muốn được nghe pháp. Lúc này, trưởng giả bèn thưa với Phật:_ Lành thay, Như Lai! Những vật cần dùng như ba y, bình bát, ống kim, tọa cụ, áo lót, chậu rửa và tất cả những vật dụng khác của Sa-môn, xin Ngài cho phép chúng Tỳ-kheo cần vật gì thảy được nhận tại nhà con.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu thầy nào cần y áo, bình bát, tọa cụ, chậu rửa cho đến tất cả những vật dụng khác của Sa-môn đều được phép đến đây thọ nhận, chớ có ngần ngại nhưng đừng khởi tâm đắm trước.
Bảo xong, Thế Tôn bèn giảng pháp vi diệu cho trưởng giả Cấp Cô Độc, rồi Ngài rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.
[0565a02] Cũng ngay sau đó, trưởng giả Cấp Cô Độc lại bố thí rộng rãi khắp bốn cửa thành, rồi lần thứ năm bố thí ở chợ và lần thứ sáu bố thí tại nhà. Ai cần đồ ăn thì cho đồ ăn, cần thức uống thì cho thức uống; cần xe cộ, kỹ nhạc, hương xông, chuỗi ngọc, ông đều cấp cho cả.
Nghe tin trưởng giả Cấp Cô Độc bố thí rộng rãi khắp bốn cửa thành, bố thí người nghèo thiếu nơi chợ rộng lớn, lại còn bố thí không hạn lượng ngay trong nhà mình, khi ấy Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Trong hàng đệ tử của Như Lai, vị ưu-bà-tắc hoan hỷ bố thí bậc nhất chính là trưởng giả Tu-đạt.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trưởng giả Cấp Cô Ðộc đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Phật rồi lui ngồi một bên. Thế Tôn liền hỏi
– Thế nào trưởng giả, có phải ông thường bố thí cho những người nghèo thiếu?
– Ðúng vậy, bạch Thế Tôn! Con thường bố thí cho người nghèo thiếu, bố thí rộng rãi khắp bốn cửa thành, còn ở tại nhà thì cung cấp cho người những gì cần dùng. Bạch Thế Tôn, có lần con suy nghĩ, muốn bố thí cho tất cả loài cầm thú như chim muông, heo, chó. Con cũng chưa từng nghĩ rằng người này nên cho hay người này không nên cho. Con cũng không nghĩ người này nên cho nhiều, hay người này nên cho ít. Con luôn suy nghĩ, tất cả chúng sanh đều nhờ ăn uống mà được sống còn, có ăn thì sống, không ăn thì chết.
Thế Tôn bèn dạy:
– Lành thay, lành thay, trưởng giả! Với tâm hạnh Bồ-tát, ông đã một lòng một dạ bố thí rộng rãi. Thật vậy, chúng sanh đều nhờ ăn uống mà được sống, không ăn uống thì sẽ chết. Này trưởng giả! Ông sẽ gặt quả lớn, được danh xưng lớn, có phước báu lớn, tiếng thơm vang khắp mười phương, lại được pháp vị giải thoát. Vì sao như thế? Vì Bồ-tát luôn vận tâm bình đẳng để bố thí, một lòng một dạ nghĩ nhớ các loài chúng sanh đều nhờ ăn uống mà tồn tại, có ăn uống tức được sống, không ăn uống thì sẽ chết. Này trưởng giả! Ông hãy vận tâm Bồ-tát mà bố thí rộng rãi.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Hãy bố thí muôn phương,
Đừng khởi tâm lẫn tiếc,
Sẽ gặp được bạn hiền,
Bờ kia ắt đến được.
Thế nên, trưởng giả! Cần phải bố thí rộng rãi với tâm bình đẳng.
Thật vậy, này trưởng giả! Hãy học tập điều này.
Sau khi nghe Phật dạy xong, trưởng giả hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hôm nay, Ta xét biết rõ căn nguyên thú hướng của chúng sanh, cũng biết rõ phước báu của việc bố thí. Cho nên, một nắm cơm dư cuối cùng, Ta đã không dùng mà đem bố thí cho người khác. Lúc ấy, Ta không hề khởi tâm ganh ghét dù chỉ nhỏ bằng mảy lông, cọng tóc. Vì chúng sanh không biết quả báo của sự bố thí, còn Ta thì thấy biết rõ cả. Quả báo của bố thí, quả báo bình đẳng, tâm không thay đổi. Thế nên, chúng sanh vì không thể bố thí với tâm bình đẳng nên tự thân đọa lạc, luôn bị tâm keo kiệt, ganh ghét trói buộc tâm ý.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Chúng sanh không thấu triệt
Giáo nghĩa Ta xiển dương,
Luôn bố thí khắp miền,
Bậc Chân nhân luôn hướng.
Nhờ tâm ý thanh tịnh,
Nên được phước gấp đôi,
Thí bình đẳng vun bồi,
Sau được quả báo lớn.
Lành thay! Nay bố thí,
Hướng ruộng phước thênh thang,
Người này lìa thế gian,
Ắt sanh lên thiên giới.
Đến cõi cao thượng rồi,
Kỹ nhạc, tự vui chơi,
An lành và thảnh thơi,
Mọi điều không thiếu thốn.
Nhờ oai đức thiên giới,
Ngọc nữ thường chẳng rời,
Nhờ bố thí bình đẳng,
Nên được bao phước lợi.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
– Các thầy chớ sợ có phước báu. Vì sao? Vì đây là báo ứng thọ lạc rất được yêu kính. Sở dĩ gọi là phước, là vì được quả báo lớn này. Các thầy lẽ ra nên sợ thiếu phước. Vì sao? Vì đây là nguồn gốc của các khổ, những thứ sầu, lo, khổ, não không thể tính kể, không được yêu thích. Ðây gọi là vô phước. Này các Tỳ-kheo! Ta nhớ thuở xưa đã từng thực hành tâm từ suốt bảy năm. Nhờ đó, trải qua bảy kiếp không đến cõi này, lại trong bảy kiếp sanh vào cõi trời Quang Âm, lại trong bảy kiếp sanh vào cõi trời Không Phạm làm Ðại Phạm thiên không ai sánh bằng, thống lãnh trăm nghìn thế giới, rồi ba mươi sáu lần làm thân trời Ðế- thích và vô số đời làm Vua Chuyển Luân. Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy siêng tạo phước, chớ có mỏi mệt. Vì sao? Vì đây là báo ứng thọ lạc rất được yêu kính, đó gọi là phước. Các thầy cần phải sợ vô phước. Vì sao? Vì đó là nguồn gốc của các khổ, những thứ sầu, lo, khổ, não không thể tính kể. Đây gọi là vô phước.
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Vui thay có phước,
Sở nguyện viên thành,
Chóng đạt Niết-bàn,
Ðến chỗ vô vi.
Cho dù số ức,
Thiên ma Ba-tuần, 4
Cũng không thể quấy,
Người có phước dày.
Họ luôn mong được,
Ðạo của Thánh hiền,
Để dứt lụy phiền,
Đời sau hết khổ.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy siêng tạo phước, lòng không biết chán. Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu ai phụng hành một pháp, không lìa một pháp thì Thiên ma Ba-tuần không có cơ hội, cũng không thể quấy nhiễu được người đó. Một pháp đó là gì? Đó là công đức phước nghiệp. Vì sao như vậy? Như Lai nhớ thuở xưa, khi cùng các Bồ-tát nhóm họp bên cội Bồ-đề, Tệ ma Ba-tuần dẫn hàng nghìn vạn ức binh chủng, đủ mọi tướng mạo, hình người đầu thú, không thể tính kể. Trời, rồng, quỷ thần, a-tu-la, ca-lâu-la, ma-hầu-la-già, v.v... đều đến tụ họp. Bấy giờ, Ma Ba-tuần nói với Như Lai:
“Sa-môn! Ông hãy mau quỳ sát đất.”
Lúc đó, Như Lai dùng thần lực phước đức hàng phục được bọn ma oán và rồi các trần cấu đều tiêu tan, không còn các uế nhiễm, liền thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân. Này các Tỳ-kheo! Hãy suy ngẫm nghĩa này: “Tỳ-kheo có đầy đủ công đức thì Tệ ma Ba-tuần không thể có cơ hội để phá hoại công đức ấy.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Có phước, an lạc,
Không phước, khổ sầu,
Ðời này, đời sau,
Nhờ phước, an lạc.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy làm phước chớ mệt mỏi.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Như có Tỳ-kheo tu hành một pháp mà không thể phá trừ đường dữ, tu hành một pháp đến được nẻo thiện, tu hành một pháp đến được Niết-bàn.
Thế nào là tu hành một pháp mà không thể phá trừ đường dữ? Đó là tâm không có niềm tin tha thiết. Tu hành một pháp này thì không thể phá trừ đường dữ.
Thế nào là tu hành một pháp sẽ đến được nẻo thiện? Đó là tâm tu tập với niềm tin tha thiết. Tu hành một pháp này thì đến được nẻo thiện.
Thế nào là tu hành một pháp đến được Niết-bàn? Đó là luôn giữ chánh niệm. Tu hành pháp này sẽ đến được Niết-bàn.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Hãy chuyên nhất tâm ý, nhớ nghĩ đến cội rễ điều lành. Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu có một người mà khi xuất hiện ở thế gian thì chúng sanh cõi này liền tăng thêm tuổi thọ, dung mạo tươi sáng, khí lực mạnh mẽ, niềm vui tràn đầy, nói năng hòa nhã. Một người đó là ai? Đó là đức Như Lai, Chí Chân, Ðẳng Chánh Giác. Đây là một người mà khi xuất hiện ở thế gian, khiến chúng sanh cõi này liền tăng thêm tuổi thọ, dung mạo tươi sáng, khí lực mạnh mẽ, niềm vui tràn đầy, nói năng hòa nhã.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Phải luôn tinh chuyên nhất tâm niệm Phật. Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Hãy học tập điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.
***
Kệ tóm tắt:19
Vô mạn nhị, Niệm đàn,
Nhị thí, San vô yếm,
Thí phước, Ma Ba-tuần,
Ác thú cập Nhất nhân.20
***
Chú thích
1 Nguyên tác: Hộ tâm phẩm 護心品 (T.02. 0125.10. 0563c10).
2 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.1. 0563c11). Tham chiếu: It. 23.
3 Nguyên tác: Chư hành tịch tĩnh (諸行寂靜). Tham chiếu: S. 22.90 - III. 132: Sabbasaṅkhārasamathe (sự tịnh chỉ tất cả các hành).
4 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.2. 0564a04).
5 Đẳng kiến (等見) tức chánh kiến. Xem thêm Kinh niệm xứ, số 1, phẩm 12, tr. 87 trong tập này. Đẳng phương tiện (等方便) tức chánh tinh tấn, đẳng ngữ (等語) tức chánh ngữ, đẳng hành (等行) tức chánh nghiệp, đẳng mạng (等命) tức chánh mạng, đẳng trị (等治) tức chánh tư duy, đẳng niệm (等念) tức chánh niệm, đẳng định (等定) tức chánh định.
6 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.3. 0564a18).
7 Nguyên tác: Đàn-việt thí chủ (檀越施主). Thí chủ (施主, dānapati): Người chủ của tài vật được đem ra bố thí. Đàn-việt (檀越, dāyaka) chỉ cho người bố thí nói chung, theo ngữ cảnh của kinh nhằm chỉ cho người đang phụ giúp thực hiện việc bố thí. Tham chiếu: A. 5.34 - III. 38: Dāyako, sīha, dānapatibahuno janassa piyo hoti manāpo (Người bố thí, này Sīha, người thí chủ được quần chúng ái mộ và ưa thích), HT. Thích Minh Châu dịch.
8 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.4. 0564b19).
9 Nguyên tác: A-na-bân-trì (阿那邠持, Anāthapiṇḍika), còn gọi tên là Cấp Cô Độc.
10 Cát tường bình (吉祥瓶) còn gọi là “đức bình” (德瓶). Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.13. 0154a07) ghi: Trời có một cái bình gọi là bình đức, nên đã nói rằng từ trong bình này sanh ra những vật cần yếu. Ai có bình này, muốn gì đều được (天與一器, 名曰德瓶, 而語之言: ‘所須之物, 從此瓶出’.其★得已, 應意所欲, 無所不得).
11 Tỳ-sa vương (毘沙王) cũng gọi là Vua Bình-sa, vị đệ tử ưu-bà-tắc của Thế Tôn rất hoan hỷ bố thí.
12 Nguyên tác: Cư sĩ (居士), nhằm chỉ cho giai cấp Phệ-xá (Vessa) trong hệ thống tập cấp của xã hội Ấn Độ cổ đại, là những người hào quý luôn nhận được sự tôn trọng của nhiều giai tầng. Ngoài ra, “cư sĩ” còn mang nghĩa là bậc tôn quý, vì “cư sĩ” là một trong bảy báu. Theo DĀ. 5 ghi: Cất chứa nhiều của báu, do vậy mọi người gọi họ là “cư sĩ” (多積財寶, 因是眾★名為居士).
13 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.5. 0565a10).
14 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.6. 0565b04). Tham chiếu: It. 26.
15 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.7. 0565b23). Tham chiếu: MĀ. 138.
16 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.8. 0565c14).
17 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.9. 0566a02).
18 Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tăng. 增 (T.02. 0125.10.10. 0566a13).
19 Nguyên tác Nhiếp tụng: 無慢二, 念壇; 二施, 堅無厭; 施福, 魔波旬; 惡趣及一★. Do đặt lại tựa đề nên Nhiếp tụng không trùng với tên kinh.
20 Bản Hán, hết quyển 4.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.