Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa giữa những người họ Thích, trú tại một đô ấp của Thích gia tên là Di-lũ-ly.
Bấy giờ, vua nước Câu-tát-la là Ba-tư-nặc và Trường Tát, vì có những việc cần làm nên cùng đi đến một thị trấn tên là Thành. Ba-tư-nặc, vua nước Câutát-la, đến một khu vườn nơi ấy, nhìn thấy những gốc cây vắng vẻ, không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, thích hợp cho sự tĩnh tọa. Sau khi nhìn thấy như vậy, nghĩ nhớ đức Thế Tôn, Vua Ba-tư-nặc nước Câutát-la nói:
- Này Trường Tát, ở đây, những gốc cây này vắng vẻ, không có tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, thích hợp cho sự tĩnh tọa. Tại chỗ này, ta đã nhiều lần đến thăm viếng đức Thế Tôn. Này Trường Tát, đức Thế Tôn hiện giờ đang ở đâu? Ta muốn đến thăm.
Trường Tát trả lời:
- Tôi nghe nói đức Thế Tôn đang du hóa giữa những người họ Thích, trú tại một đô ấp của Thích gia tên là Di-lũ-ly.
Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la lại hỏi:
- Này Trường Tát, Di-lũ-ly, đô ấp của Thích gia, cách đây bao xa?
Trường Tát đáp:
- Tâu Thiên vương, cách đây ba cu-lô-xá.
Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la nói:
- Này Trường Tát, ông hãy ra lệnh cho sửa soạn xa giá, Ta muốn đến chỗ Thế Tôn!
Trường Tát vâng lời, ra lệnh cho sửa soạn xa giá rồi tâu:
- Tâu Thiên vương, xa giá đã sửa soạn xong. Xin vâng ý Thiên vương!
Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la bèn lên xe, đi ra khỏi thành ngoài, đi đến Di-lũ-ly, đô ấp của Thích gia.
Bấy giờ, ngoài cổng Di-lũ-ly, một số đông các Tỳ-kheo đang đi kinh hành trên một khoảng đất trống. Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la đến nơi các Tỳ-kheo và hỏi:
- Thưa các Tôn giả, đức Thế Tôn hiện đang nghỉ ban ngày ở đâu?
Một số đông các Tỳ-kheo ấy trả lời:
- Thưa Đại vương, ngôi nhà lớn hướng Đông kia, với cửa sổ mở và cửa lớn đóng ấy, đức Thế Tôn hiện đang nghỉ ban ngày trong đó.
Đại vương, nếu muốn đến thăm, có thể đi đến nơi đó; đến nơi, hãy đứng bên ngoài, rồi tằng hắng và gõ cửa. Đức Thế Tôn nghe, tất sẽ mở cửa
Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la bèn xuống xe. Khi một vị Vua Sát-lợi Đảnh Sanh xuất hiện để cai trị nhân dân và ban hành giáo lệ cho cõi đất thì có năm nghi trượng. Đó là kiếm, lọng, tràng hoa, phất cán ngọc và giày thêu. Vua cởi bỏ tất cả, trao cho Trường Tát. Trường Tát nghĩ rằng: “Thiên vương nay tất chỉ đi vào một mình. Chúng ta nên đứng ở đây mà đợi vậy.”
Rồi Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la với đám tùy tùng vây quanh, bước tới ngôi nhà hướng Đông kia. Đến nơi, vua đứng ngoài tằng hắng và gõ cửa. Đức Thế Tôn nghe rồi, bèn mở cửa. Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la đi vào trong nhà, đến trước đức Phật, cúi đầu lễ sát chân rồi ba lần tự xưng tên họ:
- Con là Ba-tư-nặc, vua nước Câu-tát-la. Con là Ba-tư-nặc, vua nước Câu-tát-la.
Đức Thế Tôn đáp:
- Như vậy, Đại vương, ngài là Ba-tư-nặc, vua nước Câu-tát-la. Ngài là Ba-tư-nặc, vua nước Câu-tát-la.
Sau ba lần tự xưng tên họ, Vua Ba-tư-nặc đảnh lễ dưới chân Phật và lui ngồi một bên. Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Đại vương, Đại vương thấy Ta có những nghĩa lợi nào mà tự hạ mình đảnh lễ dưới chân và cúng dường cung kính vậy?
Vua Ba-tư-nặc thưa:
- Bạch Thế Tôn, con có pháp tịnh đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật khéo thú hướng.”
Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên đô tọa, con nhìn thấy mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp với mẹ; cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha; cho đến anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc tranh giành lẫn nhau. Trong khi tranh chấp, mẹ nói con xấu, con nói mẹ xấu; cha con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc nói xấu lẫn nhau. Người thân thích trong nhà còn như thế, huống nữa người ngoài. Còn ở đây, con thấy chúng Tỳ-kheo, đệ tử của Thế Tôn, theo Thế Tôn tu hành Phạm hạnh; hoặc nếu có Tỳ-kheo nào gây ra ít nhiều tranh chấp, xả giới, bỏ đạo, cũng không nói Phật xấu xa, không nói Pháp xấu xa, không nói chúng Tăng xấu xa, mà chỉ tự chê trách rằng: “Tôi xấu xa, thiếu đức hạnh. Tại sao như vậy? Vì tôi không thể theo Thế Tôn trọn đời tu hành Phạm hạnh.” Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí khác, đã ít nhiều học hành Phạm hạnh, hoặc chín tháng, hoặc mười tháng, nhưng lại xả bỏ để theo sắc phục trước kia; rồi lại bị nhiễm ô bởi dục vọng, nhiễm dục, dính trước dục, bị dục trói chặt, kiêu ngạo, chấp thủ, thâm nhập, sống hoan lạc trong sự hành dục mà không thấy tai họa, không thấy xuất yếu. Bạch Thế Tôn, con thấy ở đây, chúng Tỳ-kheo, đệ tử của Thế Tôn, tự nguyện trọn đời tu tập Phạm hạnh cho đến ức số. Ngoài đây ra, con không thấy ở đâu có Phạm hạnh thanh tịnh như vậy, như mái nhà của Thế Tôn. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí, thân thể gầy còm, tiều tụy, tướng mạo xấu xí, thân nổi vảy trắng, không ai muốn nhìn. Con tự nghĩ rằng: “Các Tôn giả này vì sao thân thể lại gầy còm, tiều tụy, tướng mạo xấu xí, thân nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn? Các Tôn giả này ắt không tu hành Phạm hạnh, hoặc vì bệnh hoạn hay lén lút làm việc xấu xa. Cho nên các Tôn giả này thân hình gầy còm, tiều tụy, hình sắc xấu xa, mình nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn.” Con đến hỏi họ: “Các Tôn giả, vì sao các Tôn giả có thân thể gầy còm, tiều tụy, tướng mạo xấu xí, mình nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn? Có phải các Tôn giả không thích tu hành Phạm hạnh chăng? Hoặc vì bệnh hoạn hay lén lút làm việc xấu xa, cho nên các Tôn giả có thân thể gầy còm, tiều tụy?” Những vị ấy đáp: “Đại vương, đây là bệnh trắng. Đại vương, đây là bệnh trắng.”
Bạch Thế Tôn, con thấy chúng Tỳ-kheo, đệ tử của Thế Tôn, sống hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể tinh khiết, vô vi, vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng, tự mình trọn đời tu hành Phạm hạnh. Thấy vậy, con nghĩ rằng: “Các Tôn giả này vì sao được hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể tinh khiết, vô vi, vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng, tự mình trọn đời tu hành Phạm hạnh? Các Tôn giả này hoặc đã đạt đến ly dục, hoặc chứng đắc Tăng thượng tâm, đối với hiện pháp lạc trú, chứng đạt dễ dàng, không khó. Cho nên các Tôn giả này mới được hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể tinh khiết, vô vi, vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng, tự mình trọn đời tu hành Phạm hạnh. Nếu sống trong dục lạc mà được hân hoan, đoan chánh, thì chính ta phải được đời sống hân hoan, đoan chánh ấy. Vì sao? Vì ta hưởng thụ đủ năm thứ diệu dục, được một cách dễ dàng, không khó. Nhưng các Tôn giả này đạt đến sự ly dục, chứng đắc Tăng thượng tâm, đối với hiện pháp lạc trú, thành tựu dễ dàng, không khó. Vì vậy, các Tôn giả này sống hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể tinh khiết, vô vi, vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng, tự mình trọn đời tu hành Phạm hạnh. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí, thông minh, trí tuệ, tự xưng mình thông minh, trí tuệ, bác văn quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người ai cũng đều nghe biết, đi đến nơi nào, thảy đều đả phá chủ trương, tông chỉ của người, mà tự lập luận điểm của mình và nói rằng: “Chúng ta hãy đến chỗ Samôn Cù-đàm mà hỏi Ông những điều như vầy, như vầy. Nếu Ông trả lời được như thế này, thì ta lại vặn hỏi thế kia. Nếu Ông không trả lời được, ta cũng vặn hỏi rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, liền tìm đến, nhưng khi gặp Phật thì lại chẳng dám hỏi lời nào, huống nữa là vấn nạn. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí, thông minh, trí tuệ, tự xưng là thông minh, trí tuệ, bác văn quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người đều nghe biết, đi đến nơi nào, thảy đều đả phá chủ trương, tông chỉ của người, mà tự lập luận điểm của mình và nói rằng: “Chúng ta hãy đi đến chỗ Sa-môn Cùđàm để hỏi Ông những điểm như vầy, như vầy. Nếu Ông trả lời được như thế này, ta lại vặn hỏi Ông cách kia. Nếu Ông trả lời không được, ta cũng vặn hỏi Ông rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, liền tìm đến hỏi, được Thế Tôn trả lời rõ ràng. Nghe xong, các Sa-môn, Phạm chí này rất vui mừng, phấn khởi, cúi đầu lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí khác, thông minh, trí tuệ, tự xưng là thông minh, trí tuệ, bác văn quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người đều nghe biết, đi đến nơi nào, thảy đều đả phá chủ trương, tông chỉ của người, mà tự lập luận điểm của mình và nói rằng: “Chúng ta hãy đi đến chỗ Samôn Cù-đàm để hỏi Ông những điều như vầy, như vầy. Nếu Ông trả lời được như thế này, ta lại vặn hỏi Ông cách kia. Nếu Ông trả lời không được, ta cũng vặn hỏi Ông rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, liền đến hỏi, được Thế Tôn trả lời rõ ràng. Nghe xong, các Sa-môn, Phạm chí này vui mừng, phấn khởi, liền tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo, được Thế Tôn thu nhận làm ưu-bà-tắc trọn đời, tự quy y cho đến mạng chung. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một số Sa-môn, Phạm chí khác, tự xưng là thông minh, trí tuệ, bác văn quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người đều nghe biết, đi đến nơi nào, thảy đều đả phá chủ trương, tông chỉ của người, lập luận điểm của mình và nói rằng: “Chúng ta hãy đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm để hỏi Ông những điều như vầy, như vầy. Nếu Ông trả lời được như thế này, ta lại vặn hỏi Ông cách kia. Nếu Ông trả lời không được, ta cũng vặn hỏi Ông rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, liền đến hỏi, được Thế Tôn trả lời rõ ràng. Nghe xong, các Sa-môn, Phạm chí này vui mừng, phấn khởi, bèn theo Thế Tôn cầu xin xuất gia, thọ giới Cụ túc, đắc pháp Tỳ-kheo. Thế Tôn bèn độ cho và truyền trao giới Cụ túc, đắc pháp Tỳ-kheo. Khi các Tôn giả ấy xuất gia học đạo, thọ giới Cụ túc, đắc pháp Tỳ-kheo rồi, sống cô độc một nơi xa vắng, tâm không buông lung, tinh cần tu tập. Các Tôn giả ấy sau khi sống cô độc tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tinh cần tu tập, đạt đến mục đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, là duy chỉ để thành tựu Vô thượng Phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, an trú, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Khi các Tôn giả ấy biết pháp rồi, cho đến chứng đắc A-lahán, chứng đắc A-la-hán rồi, bèn nói rằng: “Này chư Hiền, trước kia tôi gần bị suy vong, gần bị hủy diệt. Vì sao vậy? Trước kia tôi không phải là Sa-môn, lại tự xưng là Sa-môn; không phải Phạm hạnh, tự xưng Phạm hạnh; không phải A-la-hán, tự xưng A-la-hán. Bây giờ tôi mới thật sự là Sa-môn, thật sự là Phạm hạnh, thật sự là A-la-hán.” Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con tự do trong quốc thổ của mình, muốn giết kẻ không lỗi lầm thì ra lệnh giết, nếu muốn giết kẻ có lỗi lầm thì ra lệnh giết. Nhưng khi con ngồi trên đô tọa, con vẫn không được tự do mà nói như vầy: “Các khanh hãy giữ im. Không ai hỏi việc nơi các khanh, mà chính là hỏi việc nơi ta. Các khanh không thể quyết đoán việc này, chỉ ta mới có thể quyết đoán việc này.” Nhưng ở trong đó vẫn có người bàn cãi những việc khác, không đợi người trước nói xong. Con đã nhiều lần thấy Thế Tôn thuyết pháp với đại chúng vây quanh. Bấy giờ, có một người ngủ gật mà ngáy. Thấy gây tiếng động, một người khác bèn nói rằng: “Ngài chớ có ngáy gây tiếng động. Ngài không muốn nghe pháp được Thế Tôn nói như cam lồ chăng?” Người kia nghe rồi, tức thì im lặng. Con nghĩ rằng: “Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác, là bậc Điều Ngự đại chúng. Thật kỳ diệu thay! Thật hy hữu thay! Vì sao vậy? Vì Ngài không cần dùng dao, dùng gậy, nhưng tất cả đều đúng như pháp mà được an ổn khoái lạc.” Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, hai viên thần tá Tiên Dư và Túc Cựu được con ban phát tiền tài, và con thường khen ngợi họ; đời sống họ do nơi con. Nhưng con không thể khiến cho hai vị thần tá này hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự con như họ hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Thế Tôn. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, thuở xưa, trong lúc xuất chinh, ngủ đêm trong một ngôi nhà nhỏ, con muốn thử hai viên thần tá Tiên Dư và Túc Cựu khi ngủ quay đầu về phía nào, quay về phía con hay quay về phía Thế Tôn ở. Rồi hai vị thần tá Tiên Dư và Túc Cựu, vào lúc đầu hôm, ngồi kiết-già, im lặng, tĩnh tọa. Đến nửa đêm, họ nằm ngủ, đầu hướng về phía mà họ biết Thế Tôn đang ở, còn chân thì quay về phía con. Thấy thế con suy nghĩ rằng: “Hai viên thần tá Tiên Dư và Túc Cựu này không quan tâm đến sự thù thắng trước mắt. Cho nên họ không hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự ta như họ hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Thế Tôn. Đó là pháp tịnh của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng: “Pháp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là quốc vương, Thế Tôn cũng là Pháp vương. Con thuộc dòng Sát-đế-lợi, Thế Tôn cũng thuộc dòng Sát-đế-lợi. Con là người Câu-tát-la, Thế Tôn cũng là người Câu-tát-la. Con đã tám mươi tuổi, Thế Tôn cũng tám mươi tuổi. Bạch Thế Tôn, vì lẽ đó, con có thể trọn đời hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, hôm nay con có nhiều công việc, con xin phép lui về!
Đức Thế Tôn bảo:
- Đại vương, mong Đại vương tự biết đúng thời!
Rồi Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la sau khi nghe những lời Phật nói, khéo léo ghi nhớ, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui về.
Lúc đó, Tôn giả A-nan cầm quạt, đứng hầu sau Phật. Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào đang sống tại rừng Di-lũ-ly này, thầy hãy tập họp tất cả về giảng đường.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, nếu gặp Tỳ-kheo đang sống tại rừng Di-lũ-ly đều bảo tụ họp về giảng đường, rồi trở lại chỗ Phật bạch rằng: – Bạch Thế Tôn, những Tỳ-kheo tại rừng Di-lũ-ly này, tất cả đều đã tụ tập tại giảng đường rồi, mong Thế Tôn biết thời!
Bấy giờ, Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường. Đến nơi, Ngài trải chỗ ngồi mà ngồi trước đại chúng và nói:
- Này các Tỳ-kheo, hôm nay, Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la đã ở trước Ta nói Kinh Pháp trang nghiêm xong, liền đứng dậy cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ta, nhiễu quanh ba vòng rồi ra về. Này các Tỳ-kheo, các thầy nên thọ trì Kinh Pháp trang nghiêm này, hãy khéo léo tụng đọc! Vì sao vậy? Này các Tỳ-kheo, vì Kinh Pháp trang nghiêm này là như pháp, là như nghĩa, là căn bản của Phạm hạnh, dẫn đến trí tuệ, dẫn đến giác ngộ, dẫn đến Niết-bàn. Nếu một thiện nam tử đã chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, hãy nên thọ trì, hãy khéo tụng tập Kinh Pháp trang nghiêm này!
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.