Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

209. KINH BỆ-MA-NA-TU
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, dị học Bệ-ma-na-tu sau giờ ngọ, thung dung đến chỗ Phật, chào hỏi xong, lại hỏi rằng:

– Bạch Cù-đàm, sắc này hơn, sắc này hơn. Bạch Cù-đàm, sắc này hơn. Thế Tôn hỏi:
– Này Ca-chiên, đó là những sắc nào?
Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, nếu sắc nào không có sắc khác tối thượng, tối diệu, tối thắng hơn, bạch Cù-đàm, sắc đó là tối thắng, sắc đó là tối thượng.

Thế Tôn bảo:

– Ca-chiên, cũng như có người nói như vầy: “Trong nước này có một người con gái rất đẹp, ta muốn được người con gái ấy.” Nếu có người hỏi người ấy như vầy: “Ông biết trong nước có người con gái rất đẹp, nhưng có biết tên gì, họ gì; là cao, thấp, thô, tế, là trắng, đen, hoặc không trắng, không đen; là con gái của Sát-lợi, Phạm-chí, Cư sĩ hay Công sư; ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc không?” Người đó đáp: “Tôi không biết.” Người kia lại hỏi người đó rằng: “Ông không biết, không thấy trong nước có người con gái rất đẹp, tên họ như vậy; cao, thấp, thô, tế, trắng, đen, hoặc không trắng, không đen; con gái của Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư; ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc mà lại nói như vầy: ‘Tôi muốn người con gái ấy’, được ư?”

Cũng vậy, Ca-chiên, ông nói như vầy: “Người đó nói sắc vượt hơn sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.” Nhưng khi được hỏi sắc đó thì ông lại không biết.

Dị học Bệ-ma-na-tu thưa:

– Bạch Cù-đàm, cũng như tử ma là thứ cực diệu, người thợ vàng khéo mài giũa, sửa sang khiến cho trong suốt, nhờ dùng bạch luyện đem để giữa nắng, sắc của nó cực diệu, ánh sáng chiếu lấp lánh. Cũng vậy, bạch Cù-đàm, tôi nói: “Sắc đẹp đó vượt hơn sắc đẹp, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.”

Thế Tôn bảo:

– Này Ca-chiên, nay Ta hỏi ông, tùy theo chỗ hiểu mà đáp. Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Vàng ròng tử ma nhờ dùng bạch luyện để giữa nắng mà sắc của nó cực diệu, chiếu sáng lấp lánh, và ánh sáng con đom đóm trong đêm tối chiếu lấp lánh, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng con đom đóm đối với ánh sáng của vàng ròng tử ma thì ánh sáng đom đóm sáng hơn.

Thế Tôn hỏi:

– Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng lấp lánh của con đom đóm trong đêm tối và ánh sáng lấp lánh của đèn dầu trong đêm tối, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng đèn dầu đối với ánh sáng con đom đóm thì ánh sáng đèn dầu sáng hơn.

Thế Tôn hỏi:

– Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng đèn dầu trong đêm tối và lửa đống cây lớn trong đêm tối, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng lửa đống cây lớn đối với ánh sáng đèn dầu thì ánh sáng lửa đống cây lớn sáng hơn.

Thế Tôn hỏi:

– Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng lửa đống cây lớn trong đêm tối và ánh sáng của sao Thái Bạch vào buổi sáng trời không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng của sao Thái Bạch đối với ánh sáng lửa đống cây lớn thì ánh sáng sao Thái Bạch sáng hơn.

Thế Tôn hỏi:

– Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng chiếu tỏa của sao Thái Bạch vào buổi sáng trời không u ám và ánh sáng chiếu tỏa của mặt trăng nửa đêm trời không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng mặt trăng đối với ánh sáng sao Thái Bạch thì ánh sáng mặt trăng sáng hơn.

Thế Tôn hỏi:

– Này Ca-chiên, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng chiếu tỏa của mặt trăng nửa đêm trời không u ám và ánh sáng chiếu tỏa của mặt trời vào mùa thu đứng ngay giữa bầu trời trong suốt không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?

Dị học Bệ-ma-na-tu đáp:

– Bạch Cù-đàm, ánh sáng mặt trời so với ánh sáng mặt trăng thì ánh sáng mặt trời sáng hơn.

Thế Tôn bảo:

– Này Ca-chiên, có rất nhiều chư thiên; nay ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng này tuy có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ánh sáng đó cũng không bằng ánh sáng chư thiên. Ta ngày xưa đã từng cùng chư thiên tụ tập luận sự. Những điều Ta nói đều vừa ý chư thiên ấy, nhưng Ta không nói: “Sắc đẹp đó vượt qua sắc đẹp, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.” Này Ca-chiên, còn ông, với đốm lửa, lửa sâu, sắc rất tệ, rất xấu mà nói: “Sắc đó vượt qua sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng” và khi được hỏi ông lại không biết.

Ngay lúc đó, dị học Bệ-ma-na-tu bị Thế Tôn quở trách trước mặt, trong lòng buồn bã, cúi đầu im lặng, không còn lời nào biện bạch, nghĩ ngợi mông lung.

Thế Tôn sau khi quở trách, muốn khiến cho ông ta hoan hỷ nên bảo:

– Này Ca-chiên, có năm lạc tánh dục khả hỷ, khả ái, khả niệm, khả lạc, tương ưng, lạc dục: Mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết hương, lưỡi biết mùi vị và thân biết cảm xúc. Này Ca-chiên, sắc hoặc có ái hoặc không ái, nếu có một người đối với sắc này mà khả ý, xứng ý, thích ý, thỏa ý, mãn nguyện ý, người đó đối với các sắc khác dù tối thượng, tối thắng vẫn không ham muốn, không tư duy, không nguyện, không cầu; người đó cho sắc này là tối thượng, tối thắng. Này Ca-chiên, thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Này Ca-chiên, xúc hoặc có ái hoặc không ái, nếu có một người đối với xúc này mà khả ý, xứng ý, thích ý, thỏa ý, mãn nguyện ý, người đó đối với những xúc khác dù tối thượng, tối thắng vẫn không ham muốn, không tư duy, không nguyện, không cầu; người đó cho xúc này là tối thượng, tối thắng vậy.

Bấy giờ, dị học Bệ-ma-na-tu chắp tay hướng Phật và bạch:

– Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu thay! Hy hữu thay! Sa-môn Cù-đàm vì tôi mà dùng vô lượng phương tiện nói: “Dục lạc, dục lạc đệ nhất.” Bạch Cù-đàm, cũng như do lửa cỏ mà đốt lửa cây; do lửa cây mà đốt lửa cỏ. Cũng vậy, Sa-môn Cù-đàm vì tôi mà dùng vô lượng phương tiện nói: “Dục lạc, dục lạc đệ nhất.”

Đức Thế Tôn bảo:

– Thôi! Thôi! Này Ca-chiên, ông là người vì luôn luôn theo dị kiến, dị nhẫn, dị lạc, dị dục, dị ý, cho nên không thấu triệt ý nghĩa những điều Ta nói. Này Ca-chiên, đệ tử Ta đầu đêm và cuối đêm thường không nằm ngủ, chánh định, chánh ý, tu tập đạo phẩm, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Những người ấy biết thấu triệt được những điều Ta nói.

Ngay lúc đó, dị học Bệ-ma-na-tu nổi giận đối với Phật, nổi ghen ghét, không vừa ý, muốn vu báng Thế Tôn, muốn hạ nhục Thế Tôn; và ông vu báng Thế Tôn như vầy, hạ nhục Thế Tôn như vầy:

– Cù-đàm, có Sa-môn, Phạm chí không biết biên tế đời trước, không biết biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu cánh trí, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Cù-đàm, tôi nghĩ như vầy: “Vì sao Sa-môn, Phạm chí này không biết biên tế đời trước, không biết biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu cánh trí, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’”

Lúc đó, Thế Tôn liền nghĩ rằng: “Dị học Bệ-ma-na-tu nổi giận đối với Ta, nổi ghen ghét, không vừa ý, muốn vu báng Ta, muốn hạ nhục Ta, và vu báng Ta như vầy, hạ nhục Ta như vầy, nói với Ta rằng: ‘Cù-đàm, có một loại Sa-môn, Phạm chí không biết biên tế đời trước, không biết biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng được Cứu cánh trí, biết như thật: Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. Cù-đàm, tôi nghĩ như vầy: “Vì sao Sa-môn, Phạm chí này không biết biên tế đời trước, không biết biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu cánh trí, biết như thật: Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’”

Thế Tôn biết rồi, bảo rằng:

– Này Ca-chiên, nếu có Sa-môn, Phạm chí không biết biên tế đời trước, không biết biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu cánh trí, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa” thì người đó phải nói như vầy: “Hãy gác qua biên tế đời trước, hãy gác qua biên tế đời sau.” Nhưng này Ca-chiên, Ta cũng nói như vầy: “Hãy gác qua biên tế đời trước, hãy gác qua biên tế đời sau, dẫu một đời cũng không nên nhớ.” Khi đệ tử Tỳ-kheo của Ta đến, không nịnh hót, không lừa gạt mà thẳng thắn thì Ta giáo hóa họ; nếu họ cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực hành đúng như vậy thì nhất định biết được Chánh pháp.

Này Ca-chiên, cũng như một đứa trẻ nhỏ thân còn yếu, nằm ngửa. Cha mẹ nó buộc tay chân nó lại. Đứa trẻ đó sau lớn lên, các căn thành tựu; cha mẹ lại cởi trói tay chân nó ra; nó chỉ nhớ khi được cởi trói chứ không nhớ khi bị trói. Cũng vậy, này Ca-chiên, Ta nói như vầy: “Hãy gác qua biên tế đời trước, hãy gác qua biên tế đời sau, dẫu một đời cũng không nên nhớ.” Khi đệ tử Tỳ-kheo của Ta đến, không nịnh hót, không lừa gạt mà thẳng thắn thì Ta giáo hóa họ; nếu họ cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực hành đúng như vậy thì nhất định biết được Chánh pháp.

Này Ca-chiên, cũng như do dầu, do tim mà đốt đèn; không có người thêm dầu, cũng không đổi tim; dầu trước đã hết, sau không rót thêm thì lửa không thể còn mà chóng tự tắt vậy. Cũng vậy, này Ca-chiên, Ta nói như vầy: “Hãy gác lại biên tế đời trước, hãy gác lại biên tế đời sau, dù một đời cũng không nên nhớ.” Khi đệ tử Tỳ-kheo của Ta đến, không nịnh hót, không lừa gạt mà thẳng thắn thì Ta giáo hóa họ; nếu họ cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực hành đúng như vậy thì nhất định biết được Chánh pháp.

Này Ca-chiên, cũng như có mười đống cây, hoặc hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi hay sáu mươi đống cây, dùng lửa mà đốt; tất cả cùng bừng cháy, bèn thấy ngọn lửa. Đống lửa ấy nếu không có người thêm cỏ, cây, hoặc đổ thêm vỏ trấu vào, củi trước đã hết, sau không thêm nữa thì không thể còn mà chóng tự tắt vậy. Này Ca-chiên, Ta nói như vầy: “Hãy gác lại biên tế đời trước, hãy gác lại biên tế đời sau, dù một đời cũng không nên nhớ.” Khi đệ tử Tỳ-kheo của Ta đến, không nịnh hót, không lừa gạt mà thẳng thắn thì Ta giáo hóa họ; nếu họ cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực hành đúng như vậy thì nhất định biết Chánh pháp.

Khi bài pháp này được thuyết, dị học Bệ-ma-na-tu xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh. Lúc đó, dị học Bệ-ma-na-tu thấy pháp, chứng pháp, giác ngộ bạch tịnh pháp, không còn thấy ai hơn, lại không do kẻ khác mà đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, đã an trú quả chứng; đối với pháp của Thế Tôn, chứng được vô sở úy; cúi đầu sát chân Phật và thưa:

– Bạch Thế Tôn, con xin được theo Phật xuất gia học đạo, thọ giới Cụ túc, được làm Tỳ-kheo, thực hành Phạm hạnh!

Đức Thế Tôn dạy:

– Thiện lai Tỳ-kheo! Hãy hành Phạm hạnh.

Dị học được theo Phật xuất gia học đạo, thọ Cụ túc giới, được làm Tỳ-kheo, thực hành Phạm hạnh. Tôn giả Bệ-ma-na-tu xuất gia học đạo, thọ giới Cụ túc rồi, biết pháp, thấy pháp, cho đến chứng được quả vị A-la-hán.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Bệ-ma-na-tu và chư Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.