Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá, ở Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ, đêm đã qua, lúc vừa sáng, đức Thế Tôn mặc y, cầm bát, vào thành Vương Xá để khất thực; khất thực xong, thu dọn y bát, rửa chân tay, Ngài khoác ni-sư-đàn trên vai và đi đến vườn dị học trong rừng Khổng Tước. Tại rừng Khổng Tước, trong vườn dị học, bấy giờ có một người dị học tên là Tiễn Mao, là một danh đức, là bậc Tông chủ, được mọi người tôn là thầy, có tiếng tăm lớn, mọi người kính trọng, thống lãnh đồ chúng đông đảo, được năm trăm vị dị học tôn trọng. Vị này đang ở giữa một đại chúng ồn ào, nhiễu loạn, nói năng lớn tiếng, bàn luận đủ mọi vấn đề súc sanh, tức các vấn đề về vua chúa, về giặc, về việc đấu tranh, về việc ăn uống, về y phục, về đàn bà, về con gái, về dâm nữ, về thế gian, về đồng trống, về dưới biển và việc nước, việc nhân dân. Những người ấy cùng nhau nhóm họp, ngồi bàn luận về những vấn đề súc sanh như vậy.
Dị học Tiễn Mao thấy Phật từ xa đến, dặn đồ chúng của mình rằng:
– Này các ông, hãy ngồi im lặng. Người đang đến kia là Sa-môn Cù-đàm. Đồ chúng của ông ấy im lặng, thường ưa sự im lặng, khen ngợi sự im lặng. Nếu thấy chúng ta im lặng, ông ấy có thể đến thăm.
Dị học Tiễn Mao dặn chúng im lặng và chính mình cũng im lặng mà ngồi.
Đức Thế Tôn đi đến chỗ dị học Tiễn Mao. Dị học Tiễn Mao liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
– Kính chào Sa-môn Cù-đàm! Sa-môn Cù-đàm đã lâu không đến đây, mời Ngài ngồi xuống chỗ này.
Thế Tôn liền ngồi xuống chỗ ngồi mà Tiễn Mao đã trải sẵn. Dị học Tiễn Mao cùng Thế Tôn chào hỏi rồi lui ngồi một bên.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, các ông vừa bàn luận những gì? Do việc gì mà cùng nhóm họp ngồi ở đây?
Dị học Tiễn Mao thưa:
– Bạch Cù-đàm, xin bỏ qua vấn đề này, vấn đề này không hay ho gì. Sa-môn Cù-đàm nếu muốn nghe vấn đề này, để sau này nghe cũng không khó.
Thế Tôn hỏi như vậy ba lần:
– Này Ưu-đà-di, các ông vừa bàn luận những gì? Do việc gì mà cùng nhóm họp ngồi ở đây?
Dị học Tiễn Mao cũng lại đáp ba lần:
– Bạch Cù-đàm, xin bỏ qua vấn đề này, vấn đề này không hay ho gì. Sa-môn Cù-đàm nếu muốn nghe vấn đề này, để sau này nghe cũng không khó. Nhưng nếu Sa-môn Cù-đàm ba lần muốn nghe, nay tôi phải nói. Bạch Cù-đàm, tôi có sách lự, có tư duy, trú trong trạng thái sách lự, trú trong trạng thái tư duy, có trí tuệ, có biện tài. Khi nghe có người nói: “Thật sự có Tát-vân-nhiên, biết tất cả, thấy tất cả, không có gì không biết, không có gì không thấy”, tôi liền đến vấn sự, nhưng vị ấy không biết. Bạch Cù-đàm, tôi nghĩ như vầy: “Đây là thế nào?”
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ông có sách lự, có tư duy, trú trong trạng thái sách lự, trú trong trạng thái tư duy, có trí tuệ, có biện tài. Nhưng ai nói: “Thật sự có Tát-vân-nhiên, biết tất cả, thấy tất cả, không có gì không biết, không có gì không thấy”, nhưng khi ông đến vấn sự thì vị ấy không biết?
Dị học Tiễn Mao thưa:
– Bạch Cù-đàm, đó là Phất-lan Ca-diếp. Vì sao? Bạch Cù-đàm, vì Phất-lan Ca-diếp tự cho là thật có Tát-vân-nhiên, biết tất cả, thấy tất cả, không có gì không biết, không có gì không thấy. Tôi có sách lự, có tư duy, trú trong trạng thái sách lự, trú trong trạng thái tư duy, có trí tuệ, có biện tài. Tôi đến vấn sự nhưng vị ấy không biết. Bạch Cù-đàm, vậy nên tôi nghĩ thế này: “Đây là thế nào?”
Ma-tức-ca-lợi Cù-xá-lợi-tử, Sa-nhã Bệ-la-trì-tử, Ni-kiền Thân Tử, Ba-phú Ca-chiên, A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi, các vị này cũng vậy. Bạch Cù-đàm, A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi tự cho là thật có Tát-vân-nhiên, biết tất cả, thấy tất cả, không có gì không biết, không có gì không thấy. Tôi có sách lự, có tư duy, trú trong trạng thái sách lự, trú trong trạng thái tư duy, có trí tuệ, có biện tài. Tôi đến vấn sự nhưng vị ấy không biết. Bạch Cù-đàm, vậy nên tôi nghĩ thế này: “Đây là thế nào?”
Bạch Cù-đàm, tôi lại suy nghĩ: “Như vậy, ta phải đến chỗ Sa-môn Cù-đàm để hỏi những việc quá khứ; Sa-môn Cù-đàm ắt có thể đáp những việc quá khứ của ta. Ta phải đến chỗ Sa-môn Cù-đàm để hỏi những việc vị lai; Sa-môn Cùđàm ắt có thể đáp những việc vị lai của ta. Lại nữa, ta tùy những việc mà hỏi Sa-môn Cù-đàm; ắt Sa-môn Cù-đàm cũng tùy mà trả lời những việc ta hỏi.”
Thế Tôn đáp:
– Này Ưu-đà-di, thôi! Thôi! Ông luôn luôn dị kiến, dị nhẫn, dị lạc, dị dục, dị ý nên không thấu triệt ý nghĩa những điều Ta nói. Này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử có nhân, có duyên, nhớ được vô lượng đời sống về trước trong quá khứ, nghĩa là một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, bại kiếp, vô lượng thành bại kiếp, chúng sanh có tên như vậy, ta từng sanh ở đó, họ như vậy, tên như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như vậy, trú lâu như vậy, thọ mạng chấm dứt như vậy, chết ở chỗ này, sanh ở chỗ kia, chết ở nơi kia, sanh ở nơi này. Ta sanh tại đây, họ như vậy, tên như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như vậy, trú lâu như vậy, thọ mạng chấm dứt như vậy. Người ấy đến hỏi Ta việc quá khứ, Ta đáp việc quá khứ cho người ấy. Ta cũng đến hỏi người ấy việc quá khứ, người ấy cũng đáp việc quá khứ cho Ta. Ta theo việc người ấy hỏi mà đáp, người ấy cũng tùy sự việc Ta hỏi mà đáp.
Lại nữa, này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử với thiên nhãn thanh tịnh vượt quá người thường, thấy chúng sanh này khi sanh khi chết, sắc đẹp sắc xấu, sắc diệu hay bất diệu, qua lại chỗ thiện hay bất thiện, tùy theo sự tạo nghiệp của chúng sanh này mà thấy họ đúng như vậy. Nếu chúng sanh này thành tựu thân ác hạnh, thành tựu khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, vu báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu nghiệp tà kiến, người ấy do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, ắt đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh này thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu khẩu diệu, ý diệu hạnh, không vu báng Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, người ấy do duyên này, khi thân hoại mạng chung, ắt sanh lên chỗ thiện, được sanh lên cõi trời. Người ấy đến hỏi Ta việc vị lai, Ta đáp việc vị lai cho người ấy. Ta cũng đến hỏi việc vị lai, người ấy cũng đáp việc vị lai cho Ta. Ta tùy theo việc người ấy hỏi mà đáp, người ấy cũng tùy việc Ta hỏi mà đáp.
Dị học Tiễn Mao bạch:
– Bạch Cù-đàm, nếu như vậy, tôi trở thành không biết, không thấy, trở thành ngu si, rớt vào ngu si; nghĩa là, vì Sa-môn Cù-đàm nói như vầy: “Này Ưu-đà-di, thôi! Thôi! Ông luôn luôn dị kiến, dị nhẫn, dị lạc, dị dục, dị ý nên không thấu triệt ý nghĩa những điều Ta nói. Này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử có nhân, có duyên, nhớ được vô lượng đời sống về trước trong quá khứ, nghĩa là một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, bại kiếp, vô lượng thành bại kiếp, chúng sanh có tên như vậy, Ta từng sanh ở đó, họ như vậy, tên như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như vậy, trú lâu như vậy, thọ mạng chấm dứt như vậy, chết ở chỗ này, sanh ở chỗ kia, chết ở nơi kia, sanh ở nơi này. Ta sanh tại đây, họ như vậy, tên như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như vậy, trú lâu như vậy, thọ mạng chấm dứt như vậy. Người ấy đến hỏi Ta việc quá khứ, Ta đáp việc quá khứ cho người ấy. Ta cũng đến hỏi người ấy việc quá khứ, người ấy cũng đáp việc quá khứ cho Ta. Ta theo việc người ấy hỏi mà đáp, người ấy cũng tùy sự việc Ta hỏi mà đáp.”
Lại nữa, này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử với thiên nhãn thanh tịnh vượt quá người thường, thấy chúng sanh này khi sanh khi chết, sắc đẹp sắc xấu, sắc diệu hay bất diệu, qua lại chỗ thiện hay bất thiện, tùy theo sự tạo nghiệp của chúng sanh này mà thấy họ đúng như vậy. Nếu chúng sanh này thành tựu thân ác hạnh, thành tựu khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, vu báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu nghiệp tà kiến, người ấy do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, ắt đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh này thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu khẩu diệu, ý diệu hạnh, không vu báng Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, người ấy do duyên này, khi thân hoại mạng chung, ắt sanh lên chỗ thiện, được sanh lên cõi trời. Người ấy đến hỏi Ta việc vị lai, Ta đáp việc vị lai cho người ấy. Ta cũng đến hỏi việc vị lai, người ấy cũng đáp việc vị lai cho Ta. Ta tùy theo việc người ấy hỏi mà đáp, người ấy cũng tùy việc Ta hỏi mà đáp.
Bạch Cù-đàm, tôi đối với đời sống này, làm những gì đã làm, được những gì đã được còn không thể nhớ được thì làm sao có thể nhớ sự việc trong vô lượng đời sống về trước có nhân, có duyên! Bạch Cù-đàm, tôi còn không thể thấy con quỷ phiêu phong thì làm gì mà được thiên nhãn thanh tịnh vượt quá người thường, thấy chúng sanh này khi chết khi sanh, sắc tốt sắc xấu, đẹp hoặc không đẹp, đưa đến chỗ thiện hoặc chỗ bất thiện, tùy sự tạo nghiệp của chúng sanh mà thấy họ đúng như thật!
Bạch Cù-đàm, tôi lại nghĩ như vầy: “Nếu Sa-môn Cù-đàm hỏi ta vấn đề theo thầy học pháp, hoặc giả ta có thể đáp khiến Ngài vừa ý.”
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ông theo thầy học những pháp gì?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, người đó nói: “Sắc vượt quá sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.”
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, những sắc gì?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, nếu sắc nào mà không có sắc khác tối thượng, tối diệu thì là tối thắng. Vậy sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, cũng như có người nói như vầy: “Nếu trong nước này có người con gái rất đẹp, ta muốn được người con gái đó.” Nếu có người hỏi người đó như vầy: “Ông biết trong nước có người con gái rất đẹp, nhưng có biết tên gì, họ gì, sanh sống như thế nào; là cao, thấp, thô, tế, là trắng, đen, là không trắng, không đen; là con gái của Sát-lợi, Phạm-chí, cư sĩ hay người thợ; ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc không?” Người đó đáp rằng: “Tôi không biết.” Người kia lại hỏi người đó: “Ông không biết, không thấy trong nước có người con gái rất đẹp, tên họ như vậy, sanh sống như vậy; cao, thấp, thô, tế, trắng, đen, không trắng, không đen; con gái của Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ hay người thợ; ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc mà lại nói như vầy: ‘Tôi muốn được người con gái đó’, được ư?”
Cũng vậy, này Ưu-đà-di, ông nói như vầy: “Người đó nói sắc vượt quá sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.” Nhưng khi được hỏi sắc đó thì ông lại không biết.
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, cũng như tử ma là thứ cực diệu; người thợ vàng khéo mài giũa, sửa sang khiến cho trong suốt, nhờ dùng bạch luyện đem để giữa nắng, sắc của nó cực diệu, ánh sáng chiếu lấp lánh. Cũng vậy, bạch Cù-đàm, tôi nói: “Sắc đó vượt hơn sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.”
Thế Tôn bảo:
– Này Ưu-đà-di, nay Ta hỏi ông, tùy theo chỗ hiểu mà đáp. Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Vàng ròng tử ma nhờ dùng bạch luyện để giữa nắng mà sắc của nó cực diệu, chiếu sáng lấp lánh, và ánh sáng con đom đóm trong đêm tối sáng lấp lánh, trong hai ánh sáng đó, cái nào sáng hơn?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng con đom đóm đối với ánh sáng của vàng ròng tử ma thì ánh sáng đom đóm sáng hơn.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng lấp lánh của đom đóm trong đêm tối và ánh sáng lấp lánh của đèn dầu trong đêm tối, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng đèn dầu đối với ánh sáng đom đóm thì ánh sáng đèn dầu sáng hơn.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng đèn dầu trong đêm tối và lửa đống cây lớn trong đêm tối, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?
Dị học Tiễn Mao đáp: .
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng lửa đống cây lớn đối với ánh sáng đèn dầu thì ánh sáng lửa đống cây lớn sáng hơn.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng lửa đống cây lớn trong đêm tối và ánh sáng của sao Thái Bạch vào buổi sáng trời không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn hết?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng của sao Thái Bạch đối với ánh sáng lửa đống cây lớn thì ánh sáng sao Thái Bạch sáng hơn.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng chiếu tỏa của sao Thái Bạch vào buổi sáng trời không u ám và ánh sáng chiếu tỏa của mặt trăng nửa đêm trời không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng mặt trăng đối với ánh sáng sao Thái Bạch thì ánh sáng mặt trăng sáng hơn.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Ánh sáng chiếu tỏa của mặt trăng nửa đêm trời không u ám và ánh sáng chiếu tỏa của mặt trời vào mùa thu đứng ngay giữa bầu trời trong suốt không u ám, trong hai ánh sáng ấy, cái nào sáng hơn?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, ánh sáng mặt trời so với ánh sáng mặt trăng thì ánh sáng mặt trời sáng hơn. Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, có rất nhiều chư thiên. Nay ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng này tuy có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ánh sáng đó cũng không bằng ánh sáng chư thiên. Ta ngày xưa đã từng cùng chư thiên tụ tập luận sự. Những điều ta nói đều vừa ý chư Thiên ấy, tuy vậy Ta không nói: “Sắc đó vượt qua sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.” Này Ưu-đà-di, còn ông, với ánh sáng lửa đom đóm, lửa sắc rất tệ, rất xấu mà nói: “Sắc đó vượt qua sắc, sắc đó tối thắng, sắc đó tối thượng.” và khi được hỏi lại không biết.
Dị học Tiễn Mao thưa:
– Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi về lời nói này!
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ý ông thế nào mà nói như vầy: “Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi về lời nói này!”
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, con nói như vầy: “Sắc kia vượt sắc, sắc kia tối thắng, sắc kia tối thượng.” Sa-môn Cù-đàm khéo tra xét con, khéo dạy dỗ và khéo quở trách con, khiến sự hư vọng của con không còn nữa. Bạch Cù-đàm, vậy nên con nói như vầy: “Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi về lời nói này!”
Dị học Tiễn Mao lại thưa:
– Bạch Cù-đàm, hậu thế tuyệt đối lạc, có một đạo tích để chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, thế nào gọi là hậu thế tuyệt đối lạc? Thế nào là có một đạo tích để chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, giả sử có một người xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh, xa lìa trộm cắp, tà dâm, nói láo, cho đến xa lìa tà kiến, được chánh kiến. Bạch Cù-đàm, đó gọi là đời sau tuyệt đối lạc; đó gọi là có một đạo tích chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc.
Thế Tôn lại bảo:
– Này Ưu-đà-di, nay Ta hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà đáp. Này Ưu-đà-di, ý ông nghĩ sao? Nếu có một người xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh, người ấy tuyệt đối lạc hay là hỗn tạp khổ?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, là hỗn tạp khổ.
– Nếu có một người xa lìa trộm cắp, tà dâm, nói láo, cho đến xa lìa tà kiến, có chánh kiến, người ấy tuyệt đối lạc hay là hỗn tạp khổ?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, là hỗn tạp khổ.
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, như vậy há không phải rằng hỗn tạp khổ lạc là đạo tích chứng đắc hậu thế?
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, như vậy thì hỗn tạp khổ lạc là đạo tích chứng đắc hậu thế vậy.
Dị học Tiễn Mao thưa:
– Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi về lời nói này!
Thế Tôn hỏi:
– Này Ưu-đà-di, ông nghĩ thế nào mà nói như vầy: “Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi về lời nói này!”
Dị học Tiễn Mao đáp:
– Bạch Cù-đàm, con vừa nói: “Đời sau tuyệt đối lạc, có một đạo tích chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc.” Nay Sa-môn Cù-đàm khéo tra xét con, khéo dạy dỗ và quở trách con, khiến sự hư vọng của con không còn nữa. Bạch Cù-đàm, do đó con nói: “Bạch Thế Tôn, con xin hối lỗi về lời nói này! Bạch Thiện Thệ, con xin hối lỗi lời nói này!”
Thế Tôn bảo:
– Này Ưu-đà-di, trên đời quả có tuyệt đối lạc, có một đạo tích để chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc.
Dị học Tiễn Mao lại thưa:
– Bạch Cù-đàm, vì sao trên đời quả có tuyệt đối lạc? Vì sao có một đạo tích chứng đắc hậu thế tuyệt đối lạc?
Thế Tôn đáp:
– Này Ưu-đà-di, nếu khi Như Lai xuất hiện ở đời, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu; người ấy đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, làm tuệ yếu kém, ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú, không cùng với chư thiên kia tương đồng về giới, về tâm và về kiến vậy. Người ấy giác quán đã tịch tĩnh, nội tĩnh, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú, không cùng với chư thiên kia tương đồng về giới, về tâm và về kiến vậy. Người đó ly hỷ dục, an trú xả, vô cầu, chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc, điều mà bậc Thánh gọi là Thánh xả niệm lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú, không cùng với chư thiên kia tương đồng về giới, về tâm và về kiến. Này Ưu-đà-di, đó gọi là thế giới tuyệt đối lạc.
Dị học Tiễn Mao hỏi:
– Bạch Cù-đàm, thế giới tuyệt đối lạc này là cao nhất chăng?
Thế Tôn đáp:
– Thế giới tuyệt đối lạc này chưa phải là cao nhất, lại còn có một đạo tích để chứng đắc thế giới tuyệt đối lạc khác.
Dị học Tiễn Mao lại hỏi:
– Thế nào là còn có một đạo tích để chứng đắc tuyệt đối lạc?
Thế Tôn đáp:
– Này Ưu-đà-di, Tỳ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, ly sanh hỷ lạc, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú, cùng với chư thiên kia tương đồng về giới, về tâm và về kiến. Vị Tỳ-kheo ấy giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, định sanh hỷ lạc, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú, cùng với chư thiên kia tương đồng về giới, về tâm và về kiến. Vị Tỳ-kheo ấy ly hỷ dục, an trú xả, vô cầu, chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc, điều mà bậc Thánh gọi là Thánh xả niệm lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú, cùng với chư thiên kia tương đồng về tâm, về giới và về kiến. Này Ưu-đà-di, đó gọi là có đạo tích để chứng đắc thế giới tuyệt đối lạc.
Dị học Tiễn Mao hỏi:
– Bạch Cù-đàm, phải chăng đệ tử của Sa-môn Cù-đàm vì thế giới tuyệt đối lạc và vì một đạo tích chứng đắc thế giới tuyệt đối lạc ấy mà theo Sa-môn Cù-đàm học Phạm hạnh chăng?
Thế Tôn đáp:
– Đệ tử của Ta không phải chỉ vì thế giới tuyệt đối lạc và vì một đạo tích chứng đắc thế giới tuyệt đối lạc ấy mà theo học Phạm hạnh; nhưng còn có sự tối thắng, tối diệu, tối thượng khác để chứng đắc nữa mà đệ tử của Ta theo Ta học Phạm hạnh.
Bấy giờ, cả đại chúng này cùng lớn tiếng nói:
– Chính vì sự tối thượng, tối diệu, tối thắng kia mà đệ tử Sa-môn Cù-đàm theo Sa-môn Cù-đàm học Phạm hạnh. Bấy giờ, dị học Tiễn Mao bảo đại chúng của mình im lặng, rồi lại thưa:
– Bạch Cù-đàm, thế nào là sự tối thượng, tối diệu, tối thắng, vì để chứng đắc như vậy mà đệ tử Sa-môn Cù-đàm theo Sa-môn Cù-đàm học Phạm hạnh?
Thế Tôn đáp:
– Này Ưu-đà-di, Tỳ-kheo diệt lạc, diệt khổ, hỷ và ưu đã có từ trước cũng diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Này Ưu-đà-di, đó gọi là tối thượng, tối diệu, tối thắng, vì để chứng đắc như vậy mà đệ tử Ta theo Ta học Phạm hạnh.
Bấy giờ, dị học Tiễn Mao liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu sát chân Phật. Ngay lúc đó, các đệ tử dị học Phạm hạnh của dị học Tiễn Mao thưa với dị học Tiễn Mao rằng:
– Tôn giả nay đáng làm bậc thầy mà muốn làm đệ tử Sa-môn Cù-đàm ư? Khi nào Tôn giả không đồng ý làm thầy rồi hãy làm đệ tử Sa-môn Cù-đàm.
Đó là đệ tử của dị học Tiễn Mao làm chướng ngại dị học Tiễn Mao đối với sự tu học Phạm hạnh, nghĩa là theo Thế Tôn học Phạm hạnh.
Đức Phật thuyết như vậy, dị học Tiễn Mao nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.