Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
– Ta đã từng nói năm hạ phần kiết sử, các thầy có thọ trì chăng?
Các Tỳ-kheo im lặng, không trả lời. Thế Tôn hỏi lại đến lần thứ ba:
– Ta đã từng nói năm hạ phần kiết sử, các thầy có thọ trì chăng?
Các Tỳ-kheo cũng im lặng, không trả lời đến lần thứ ba. Lúc bấy giờ, Tôn giả Man Đồng Tử từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật và bạch:
– Thế Tôn đã từng nói năm hạ phần kiết sử, con có thọ trì.
Thế Tôn hỏi:
– Này Man Đồng Tử, Ta đã từng nói năm hạ phần kiết sử, thầy có thọ trì chăng? Tôn giả Man Đồng Tử đáp:
– Thế Tôn đã nói dục là hạ phần kiết sử thứ nhất, con thọ trì như vậy; sân nhuế, thân kiến, giới thủ và nghi; Thế Tôn đã nói nghi là hạ phần kiết sử thứ năm, con thọ trì như vậy.
Thế Tôn quở:
– Man Đồng Tử, sao thầy lại thọ trì rằng Ta nói năm hạ phần kiết sử như vậy? Man Đồng Tử, thầy nghe từ miệng ai mà thọ trì rằng Ta nói năm hạ phần kiết sử như vậy?
Này Man Đồng Tử, không phải số đông các người di học cật vấn, chỉ trích thầy với thí dụ này chăng: “Này Man Đồng Tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm ngửa mà ngủ, trong ý còn không có ý tưởng về dục tưởng, há lại tâm có triền phược nơi dục chăng? Nhưng do kiết sử nơi bản tánh của nó nên nói là dục sử. Man Đồng Tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm ngửa mà ngủ, ý tưởng về chúng sanh còn không có, há lại có tâm về triền phược nơi sân nhuế chăng? Nhưng do kiết sử nơi bản tánh của nó nên nói là nhuế sử. Man Đồng Tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm ngửa mà ngủ, ý tưởng về tự thân còn không có, há lại có tâm triền phược nơi thân kiến chăng? Nhưng do kiết sử nơi bản tánh của nó nên nói là thân kiến sử. Man Đồng Tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm ngửa mà ngủ, ý tưởng về giới còn không có, há lại có tâm triền phược nơi giới thủ chăng? Nhưng do kiết sử nơi bản tánh của nó nên nói là giới thủ sử. Man Đồng Tử, con nít mới sanh mềm yếu, ý tưởng về pháp còn không có, há lại có tâm triền phược nơi nghi pháp chăng? Nhưng do kiết sử nơi bản tánh của nó nên nói là nghi sử.” Không phải số đông các dị học đem thí dụ về con nít mới sanh này mà chỉ trích, cật vấn thầy chăng?
Lúc bấy giờ, Man Đồng Tử bị Thế Tôn quở trách trước mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không còn lời biện bạch, suy nghĩ mông lung. Đức Thế Tôn sau khi quở trách Tôn giả Man Đồng Tử rồi, ngồi im lặng. Lúc ấy, Tôngiả A-nan đứng sau Thế Tôn, cầm quạt hầu Phật. Rồi Tôn giả A-nan chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, nay thật đúng lúc. Bạch Thiện Thệ, nay thật đúng lúc. Nếu Thế Tôn nói cho các Tỳ-kheo nghe năm hạ phần kiết sử, các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn, sẽ thọ trì cẩn thận.
Thế Tôn dạy:
– Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tu niệm! Tôn giả A-nan bạch:
– Xin vâng lời lắng nghe!
Phật dạy:
– Này A-nan, ở đây, có một hạng người bị dục triền phược, tâm dục sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do người đó không biết như thật về sự xả ly nên tham dục càng tăng thạnh, không thể chế ngự đoạn trừ; đó là hạ phần kiết sử.
Này A-nan, ở đây, có một hạng người bị nhuế triền phược, tâm nhuế sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do người đó không biết như thật về sự xả ly nên sân nhuế càng tăng thạnh, không thể chế ngự đoạn trừ; đó là hạ phần kiết sử.
Này A-nan, ở đây, có một hạng người bị thân kiến triền phược, tâm thân kiến sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do người đó không biết như thật về sự xả ly nên thân kiến càng tăng thạnh, không thể chế ngự đoạn trừ; đó là hạ phần kiết sử.
Này A-nan, ở đây, có một hạng người bị giới thủ triền phược, tâm giới thủ sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do người đó không biết như thật về sự xả ly nên giới thủ càng tăng thạnh, không thể chế ngự đoạn trừ; đó là hạ phần kiết sử.
Này A-nan, ở đây, có một hạng người bị nghi phiền trược, tâm nghi sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do người đó không biết như thật về sự xả ly nên nghi càng tăng thạnh, không thể chế ngự đoạn trừ; đó là hạ phần kiết sử.
Này A-nan, y trên đạo, y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Nếu không y trên đạo này, không y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, trường hợp này không thể có. Này A-nan, cũng như một người muốn tìm lõi cây; vì để tìm lõi cây nên xách búa vào rừng; người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành, lá và lõi. Nhưng nếu người ấy không chặt nơi rễ, nơi thân mà tìm được lõi cây mang về, trường hợp này không thể có. Cũng vậy, A-nan, phải y trên đạo, y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Nếu không y trên đạo này, không y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, trường hợp này không thể có.
Này A-nan, y trên đạo, y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Nếu ai y trên đạo này, y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, trường hợp này tất có. Này A-nan, cũng như một người muốn tìm lõi cây; vì để tìm lõi cây nên xách búa vào rừng; người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành, lá và lõi. Nếu người ấy chặt nơi rễ, nơi thân và được lõi cây để mang về, trường hợp này chắc có. Cũng vậy, A-nan, y trên đạo, y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Nếu ai y trên đạo này, y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, trường hợp này tất có.
Này A-nan, y trên đạo nào, y trên tích nào để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử? Này A-nan, ở đây, một hạng người không bị dục triền phược; nếu dục triền phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly; biết như thật về sự xả ly rồi, dục triền nơi người ấy liền diệt. Này A-nan, ở đây, một người không bị nhuế triền phược; nếu nhuế triền phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly; biết như thật về sự xả ly rồi, nhuế triền nơi người ấy liền diệt. Này A-nan, ở đây, một người không bị thân kiến triền phược; nếu thân kiến triền phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly; biết như thật về sự xả ly rồi, thân kiến triền nơi người ấy liền diệt. Này A-nan, ở đây, một người không bị giới thủ triền phược; nếu giới thủ triền phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly; biết như thật về sự xả ly rồi, giới thủ triền nơi người ấy liền diệt. Này A-nan, ở đây, một người không bị nghi triền phược; nếu nghi triền phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly; biết như thật về sự xả ly rồi, nghi triền nơi người ấy liền diệt. Này A-nan, y trên đạo này, y trên tích này mà đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Này A-nan, cũng như sông Hằng-già với nước chảy tràn lên bờ. Nếu có một người đến, có công việc ở bên bờ kia nên muốn qua sông, người ấy suy nghĩ rằng: “Sông Hằng-già này nước chảy tràn lên bờ. Ta có công việc ở bờ bên kia nên muốn qua sông. Nhưng tự thân ta không đủ sức để bình an lội sang bờ bên kia.” Này A-nan, nên biết rằng người ấy không đủ sức. Cũng vậy, này A-nan, nếu ai đối với sự chứng giác, với tịch diệt, với Niết-bàn mà tâm không thú hướng, không thanh tịnh, không trú nơi giải thoát, này A-nan nên biết, người ấy cũng giống như người gầy yếu, không sức lực kia.
Này A-nan cũng như sông Hằng-già với nước chảy tràn lên bờ. Nếu có một người đến, có công việc ở bờ bên kia nên muốn qua sông, người ấy nghĩ rằng: “Sông Hằng-già này nước chảy tràn lên bờ. Ta có việc ở bờ bên kia nên muốn qua sông. Tự thân ta đủ sức để bình an lội qua bờ bên kia.” Này A-nan, nên biết rằng người ấy đủ sức. Cũng vậy, này A-nan, nếu ai đối với sự chứng giác, với tịch diệt, với Niết-bàn mà tâm thú hướng, thanh tịnh mà an trú nơi giải thoát, này A-nan nên biết, người này cũng như người có sức lực kia.
Này A-nan, cũng như dòng nước lũ rất sâu, rất rộng, chảy xiết, cuốn trôi nhiều thứ mà ở quãng giữa lại không thuyền, không cầu. Giả sử có một người đến, có công việc ở bờ bên kia nên tìm cách để qua. Khi tìm cách để qua, người ấy suy nghĩ rằng: “Nay dòng nước lũ này rất sâu, rất rộng, chảy xiết, cuốn trôi mọi thứ mà ở quãng giữa lại không thuyền, không cầu để có thể qua. Ta có công việc ở bờ bên kia cần đi qua. Với phương tiện nào đó ta có thể bình an sang bờ bên kia?” Rồi người đó lại nghĩ rằng: “Bây giờ, ở bờ bên này, ta hãy thu lượm cỏ cây, buộc lại mà làm chiếc bè để bơi sang.” Người ấy bèn ở bờ bên này thu lượm cỏ cây, buộc lại làm thành chiếc bè rồi bình an bơi sang bờ bên kia. Cũng vậy, này A-nan, nếu có Tỳ-kheo phan duyên vào sự yểm ly, y trên sự yểm ly, an trú nơi yểm ly, do chấm dứt thân ác hạnh, do tâm nhập ly định, ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì người đó tất sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy giác quán đã tịch tịnh, nội tĩnh, nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì vị ấy sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc, điều mà bậc Thánh gọi là Thánh sở xả niệm lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì vị ấy sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy diệt lạc, diệt khổ, ưu hỷ vốn có cũng đã diệt, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì vị ấy tất sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy vượt qua sắc tưởng, diệt hữu ngại tưởng, không suy niệm đến bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng không, chứng Vô lượng không xứ, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì vị ấy sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trú nơi đó, tất chứng đắc lậu tận. Giả sử an trú nơi đó mà không chứng đắc lậu tận thì vị ấy tất sẽ thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ.
Thế nào là thăng tiến đạt đến tịch tịnh xứ? Vị ấy vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú. Nơi vị ấy, nếu có những cảm thọ nào, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không khổ, không lạc, vị ấy quán cảm thọ này là vô thường, quán sự hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả. Vị ấy sau khi như vậy quán thọ này là vô thường, quán sự hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả rồi, liền không còn chấp thủ đối với thế gian này. Sau khi không còn chấp thủ đối với thế gian này, vị ấy không sợ hãi; do không sợ hãi mà nhập Niết-bàn và biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Cũng như cách thôn không xa, có một cây chuối lớn. Nếu có người xách búa đến đốn ngã cây chuối, xẻ thành mảnh, xẻ làm mười phần hay làm trăm phần. Sau khi xẻ làm mười phần hay làm trăm phần rồi, bèn vạch từng sợi, nhưng mắt chuối còn không tìm thấy, há lại tìm thấy lõi được sao? Này A-nan, cũng vậy, Tỳ-kheo nếu có những cảm thọ nào, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không khổ, không lạc, vị ấy quán cảm thọ này là vô thường, quán sự hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả. Vị ấy sau khi như vậy quán thọ này là vô thường, quán sự hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả rồi, liền không còn chấp thủ đối với thế gian này. Sau khi không còn chấp thủ đối với thế gian này, vị ấy không sợ hãi; do không sợ hãi mà nhập Niết-bàn và biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, kỳ lạ thay, hy hữu thay! Thế Tôn vì các Tỳ-kheo, y trên y, thiết lập y, nói về sự xả ly lậu, nói về sự vượt qua lậu; nhưng các Tỳ-kheo không nhanh chóng chứng đắc Vô thượng, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt tận.
Thế Tôn dạy:
– Thật vậy, này A-nan. Thật vậy, này A-nan. Thật là kỳ lạ! Thật là hy hữu! Ta vì các Tỳ-kheo, y trên y, thiết lập y, nói về sự xả ly lậu, nói về sự vượt qua lậu; nhưng các Tỳ-kheo không nhanh chóng chứng đắc Vô thượng, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt tận. Vì sao? Vì sự thắng, liệt nơi mỗi người cho nên sự tu đạo có tinh, có thô. Do sự tu đạo có tinh, có thô cho nên mỗi người có sự thắng, liệt khác nhau. Này A-nan, vì vậy Ta nói mỗi người có sự thắng, liệt khác nhau.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.