Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, ở trong Đông Viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vào lúc xế trưa, từ tĩnh tọa dậy, bước xuống giảng đường và nói với Tôn giả A-nan:
– Bây giờ, Ta và thầy đến sông A-di-la-bà-đề để tắm.
Tôn giả A-nan bạch:
– Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Rồi Tôn giả A-nan cầm then cửa, tản bộ đi đến khắp các cốc, gặp thầy Tỳ- kheo nào cũng nói rằng:
– Chư Hiền, hãy đi đến nhà Phạm chí La-ma!
Các Tỳ-kheo nghe nói, bèn cùng nhau đến Phạm chí La-ma.
Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan đi đến sông A-di-la-bà-đề, cởi y để trên bờ, rồi xuống nước tắm; tắm xong, trở lên lau mình, mặc y. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng sau Thế Tôn, cầm quạt hầu Phật. Rồi Tôn giả A-nan chắp tay hướng về phía Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, nhà của Phạm chí La-ma rất tốt, ngăn nắp, rất khả ái. Cúi mong Thế Tôn vì từ mẫn, đi đến nhà của Phạm chí La-ma!
Thế Tôn im lặng nhận lời của Tôn giả A-nan. Rồi Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan đi đến nhà của Phạm chí La-ma. Bấy giờ, tại nhà của Phạm chí La-ma, một số đông Tỳ-kheo đã tụ tập, ngồi lại để thuyết pháp. Đức Phật đứng ngoài cửa, đợi các Tỳ-kheo nói pháp xong. Khi số đông các Tỳ-kheo đã nói pháp xong, các vị ấy ngồi im lặng. Thế Tôn biết rồi, bèn lên tiếng gõ cửa.
Các Tỳ-kheo nghe, tức thì đi ra mở cửa. Đức Thế Tôn bước vào nhà Phạm chí La-ma, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo mà ngồi và hỏi:
– Các thầy Tỳ-kheo vừa nói những gì vậy? Vì sự việc gì mà các thầy tụ tập, ngồi ở nơi này?
Lúc ấy, các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, vừa rồi chúng con thuyết pháp, do pháp sự này mà tụ tập ngồi ở đây.
Thế Tôn khen:
– Lành thay, lành thay! Tỳ-kheo khi tụ tập ngồi lại nên làm hai việc: Một là thuyết pháp, hai là im lặng. Vì sao vậy? Ta sẽ giảng pháp cho các thầy. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy tư niệm kỹ!
Lúc ấy, các Tỳ-kheo bạch:
– Chúng con kính vâng lời lắng nghe.
Đức Phật dạy:
– Có hai loại tìm cầu: Một là Thánh cầu, hai là phi Thánh cầu. Thế nào là phi Thánh cầu? Có một hạng người thật sự lệ thuộc tật bệnh nhưng lại tìm cầu sự tật bệnh; thật sự lệ thuộc sự chết, sầu, bi, ưu, não, thật sự lệ thuộc sự ô uế nhưng lại tìm cầu sự ô uế. Thế nào là thật sự lệ thuộc tật bệnh nhưng lại tìm cầu tật bệnh? Thế nào là tật bệnh? Con cái, anh em, đó là bệnh vậy. Voi, ngựa, bò, dê, nô tỳ, tiền tài, trân bảo, lúa gạo, là bệnh hại. Chúng sanh ở trong đó xúc chạm, đắm nhiễm, tham ái, dính trước, kiêu ngạo và lăn xả vào, thọ dụng mà không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Thế nào là sự già, sự chết, sự sầu, bi, ưu, não, sự ô uế? Con cái, anh em, đó là sự ô uế. Voi, ngựa, bò, dê, tiền tài, trân bảo, lúa gạo; đó là sự ô uế, là sự tổn hại. Chúng sanh ở trong đó đắm nhiễm, xúc chạm, tham ái, dính trước, kiêu ngạo, lăn xả, thọ dụng mà không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Người đó muốn tìm cầu cái không tật bệnh, an ổn Vô thượng Niết-bàn, nhưng đạt được không tật bệnh Vô thượng an ổn Niết-bàn là trường hợp không thể có. Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn; nhưng đạt được không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn là trường hợp không thể có. Đó gọi là phi Thánh cầu.
Thế nào là Thánh cầu? Có một hạng người suy nghĩ như thế này: “Ta thật sự lệ thuộc tật bệnh nhưng không bỏ tìm cầu bệnh tật. Ta thật sự lệ thuộc già, chết, sầu, bi, ưu, não, ô uế, nhưng không bỏ sự tìm cầu ô uế. Vậy ta hãy tìm cầu cái không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu cái không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.” Người ấy bèn tìm cầu cái không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn và đạt được không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn; đó là trường hợp có thể có. Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn và đạt được không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn; đó là trường hợp có thể có.
Ta trước kia khi chưa chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác cũng suy gẫm như vầy: “Ta thật sự lệ thuộc tật bệnh nhưng không bỏ tìm cầu tật bệnh. Ta thật sự lệ thuộc già, chết, sầu, bi, ưu, não, ô uế, nhưng không bỏ tìm cầu cái không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế. Vậy ta có nên tìm cầu cái không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu cái không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn chăng? ”
Ta vào thời thiếu niên, trong trắng, mái tóc xanh mướt, cho đến thời tráng niên, năm hai mươi chín tuổi, bấy giờ sống cực kỳ hoan lạc, thích trang sức, du hành. Ta vào lúc ấy, mặc dù cha mẹ khóc lóc, thân thuộc không ai vui, nhưng Ta cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, thủ hộ thân mạng thanh tịnh, thủ hộ khẩu và ý mạng thanh tịnh. Ta đã thành tựu giới thân ấy rồi, lại muốn tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, cho nên lại tìm đến nơi A-la-la-già-la-ma và hỏi rằng:
– Này A-la-la, Tôi muốn theo pháp của người để tu hành Phạm hạnh được chăng?
A-la-la trả lời:
– Này Hiền giả, không có gì là không được. Hiền giả muốn hành thì hành!
Ta lại hỏi:
– Làm thế nào để pháp của người được tự tri, tự giác, tự tác chứng?
A-la-la đáp:
– Tôi vượt qua tất cả Thức xứ, đạt được Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú. Do đó, pháp của tôi được tự tri, tự giác, tự tác chứng.
Ta lại suy nghĩ như vầy: “Không chỉ riêng A-la-la mới có niềm tin này; Ta cũng có niềm tin này. Không chỉ riêng A-la-la mới có sự tinh tấn này; Ta cũng có sự tinh tấn này. Không chỉ riêng A-la-la mới có tuệ này; Ta cũng có tuệ này. A-la-la đối với pháp này đã tự tri, tự giác, tự tác chứng.” Ta muốn chứng pháp này, cho nên bèn sống cô độc tại một nơi xa vắng, thanh nhàn, yên tĩnh, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Sau khi Ta sống cô độc tại một nơi xa vắng, thanh nhàn, yên tĩnh, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần, không bao lâu Ta chứng pháp ấy. Sau khi chứng pháp ấy, Ta lại tìm đến chỗ A-la-la-già- la-ma và hỏi:
– Này A-la-la, phải chăng pháp này được tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, đạt được Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú?
A-la-la trả lời Ta:
– Này Hiền giả, đó là pháp tôi tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, đạt được Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú.
A-la-la-già-la-ma lại nói với Ta:
– Này Hiền giả, ấy là cũng như sự tác chứng của tôi đối với pháp này, Hiền giả cũng vậy. Cũng như sự tác chứng của Hiền giả đối với pháp này, tôi cũng vậy. Này Hiền giả, Người hãy đến đây cùng tôi lãnh đạo đồ chúng này.
Đó là A-la-la-già-la-ma đối xử Ta với địa vị Tôn sư, coi Ta ngang hàng, tối thượng cung kính, tối thượng cúng dường, tối thượng hoan hỷ. Ta lại suy nghĩ như vầy: “Pháp này không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Vậy Ta hãy xả bỏ pháp này để tìm cầu thêm nữa sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.” Ta bèn xả bỏ pháp này để đi tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.
Rồi Ta đi đến chỗ Uất-đầu-la La-ma-tử, hỏi rằng:
– Uất-đầu-la, Tôi muốn ở trong pháp của người mà học hỏi, có thể được chăng?
Uất-đầu-la La-ma-tử trả lời Ta rằng:
– Này Hiền giả, không có gì là không được. Người muốn học thì học!
Ta lại hỏi:
– Này La-ma-tử, người tự tri, tự giác, tự tác chứng pháp gì?
Uất-đầu-la La-ma-tử đáp:
– Hiền giả, tôi vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, đạt được Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú. Hiền giả, điều mà cha tôi là La-ma tự tri, tự giác, tự tác chứng, là pháp này.
Ta lại suy nghĩ như vầy: “Không riêng chỉ La-ma mới có niềm tin này; Ta cũng có niềm tin này. Không chỉ riêng La-ma mới có sự tinh tấn này; Ta cũng có sự tinh tấn này. Không chỉ riêng La-ma mới có tuệ này; Ta cũng có tuệ này. La-ma đã tự tri, tự giác, tự tác chứng pháp này. Tại sao Ta lại không tự tri, tự giác, tự tác chứng pháp này?” Vì Ta muốn chứng pháp này, cho nên sống cô độc tại một nơi xa vắng, thanh nhàn, yên tĩnh, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Sau khi Ta sống cô độc tại một nơi xa vắng, thanh nhàn, yên tĩnh, không bao lâu chứng được pháp ấy. Khi chứng pháp ấy rồi, Ta lại đến Uất-đầu-la La- ma-tử và hỏi:
– Này Uất-đầu-la, thân phụ người là La-ma, phải chăng pháp này được tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, đạt được Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú?
Uất-đầu-la La-ma-tử trả lời Ta rằng:
– Hiền giả, thân phụ tôi là La-ma, đây là pháp được tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, đạt được Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú.
Uất-đầu-la lại nói với Ta rằng:
– Cũng như sự tác chứng của thân phụ tôi về pháp này, Hiền giả cũng vậy. Cũng như sự tác chứng của Hiền giả về pháp này, thân phụ tôi cũng vậy. Hiền giả, Người hãy đến đây cùng tôi lãnh đạo đồ chúng này.
Uất-đầu-la đối xử Ta ngang địa vị Tôn sư, coi Ta cũng như bậc thầy, tối thượng cung kính, tối thượng cúng dường, tối thượng hoan hỷ. Ta lại suy nghĩ như vầy: “Pháp này không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Vậy Ta hãy xả bỏ pháp này, để tìm cầu thêm nữa sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.” Ta liền xả bỏ pháp ấy để đi tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.
Rồi Ta đi về phía Nam núi Tượng Đảnh, đến tại Uất-bệ-la, một ngôi làng của Phạm chí tên là Tư-na. Đây là một khoảnh đất xinh xắn, khả ái; núi rừng sầm uất; sông Ni-liên-thiền với dòng nước trong xanh chảy tràn lên bờ. Ta thấy khoảnh đất ấy bèn nghĩ rằng: “Khoảnh đất này xinh xắn, khả ái; núi rừng sầm uất; sông Ni-liên-thiền với dòng nước trong xanh chảy tràn lên bờ. Nếu một thiện nam tử muốn học đạo nên ở nơi này mà học; Ta cũng học đạo, vậy Ta hãy ở nơi này mà học.” Rồi Ta ôm cỏ đến cây Giác. Đến nơi, Ta rải cỏ xuống, trải ni-sư-đàn lên và ngồi kiết-già, kỳ hẹn sẽ không rời khỏi chỗ ngồi cho đến khi nào chứng đắc Lậu tận. Và Ta không rời khỏi chỗ ngồi cho đến khi chứng đắc Lậu tận.
Ta tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, liền đạt được sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, liền đạt được sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm pháp, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Ta khi vừa chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác liền nghĩ như vầy: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước nhất?” Rồi Ta lại nghĩ rằng: “Ta có nên đi đến thuyết pháp cho A-la-la-già-la-ma trước nhất chăng?” Lúc bấy giờ có thiên thần trú trong hư không nói với Ta rằng: “Đại Tiên Nhơn, xin biết cho, A-la-la-già-la- ma vừa mạng chung, đến nay đã được bảy ngày.” Ta cũng tự biết A-la-la-già- la-ma mạng chung đã được bảy ngày. Ta lại nghĩ như vầy: “A-la-la-già-la-ma, thiệt thòi thay cho người ấy, không nghe được pháp này! Nếu được nghe pháp này, người ấy sẽ nhanh chóng biết rõ pháp tùy pháp.”
Ta khi vừa chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác liền nghĩ như vầy: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước nhất?” Rồi Ta lại nghĩ rằng: “Ta có nên thuyết pháp cho Uất-đầu-la La-ma-tử trước hết chăng?” Thiên thần lại trú trong hư không nói với Ta rằng: “Đại Tiên Nhơn, xin biết cho, Uất-đầu-la La-ma-tử mạng chung đến nay đã hai tuần thất. Ta cũng tự biết Uất-đầu-la La-ma-tử mạng chung đã hai tuần thất. Ta lại nghĩ như vầy: “Uất-đầu-la La-ma-tử, thiệt thòi thay cho người ấy, không nghe được pháp này! Nếu được nghe pháp này, người ấy sẽ nhanh chóng biết rõ pháp tùy pháp.”
Ta khi vừa mới chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, liền suy nghĩ như vầy: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước nhất? Rồi Ta lại nghĩ rằng: “Xưa kia, năm thầy Tỳ-kheo hầu hạ Ta, giúp Ta nhiều điều hữu ích. Khi Ta tu hành khổ hạnh, năm thầy Tỳ-kheo ấy đã thừa sự Ta. Nay Ta có nên thuyết pháp cho năm thầy Tỳ-kheo trước chăng?” Rồi Ta lại nghĩ rằng: “Năm thầy Tỳ-kheo thuở xưa ấy bây giờ đang ở đâu?” Bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt hẳn người thường, Ta thấy năm thầy Tỳ-kheo đang ở tại Ba-la-nại, chỗ tiên nhơn trụ xứ, trong vườn Lộc Dã.
Ta tùy thuận trú dưới gốc cây Giác. Sau đó, Ta thu vén y, ôm bát, đi về Ba- la-nại, đến đô ấp Ca-thi. Bấy giờ, dị học Ưu-đà từ xa trông thấy Ta đi đến, bèn nói với Ta:
– Hiền giả Cù-đàm các căn thanh tịnh, hình sắc thù diệu, khuôn mặt ngời sáng. Hiền giả Cù-đàm, ai là Tôn sư? Theo ai học đạo để tin tưởng thủ hộ pháp?
Ta lúc bấy giờ liền nói bài kệ để trả lời Ưu-đà:
Ta tối thượng tối thắng,
Không nhiễm trước tất cả,
Giải thoát, ái diệt tận,
Tự giác, ai Tôn sư?
Bậc Vô Đẳng, Đại Hùng,
Tự giác, Vô Thượng giác,
Như Lai, thầy thiên nhơn,
Biến tri, thành tựu lực.
Ưu-đà hỏi Ta:
– Hiền giả Cù-đàm tự cho là tối thắng chăng?
Ta lại nói bài kệ trả lời:
Đấng Tối Thắng như vậy,
Các lậu đã tận trừ,
Ta sát hại ác pháp,
Nên tối thắng là Ta.
Ưu-đà lại hỏi Ta rằng:
– Hiền giả Cù-đàm, bây giờ muốn đi về đâu?
Ta bấy giờ nói bài kệ trả lời:
Ta đến Ba-la-nại,
Gióng trống diệu cam lồ,
Chuyển pháp luân vô thượng,
Chưa ai chuyển trong đời.
Ưu-đà nói với Ta:
– Hiền giả Cù-đàm có thể làm như vậy.
Rồi vị ấy bước sang con đường tắt mà đi trở lui. Ta một mình đi đến tiên nhơn trú xứ, trong vườn Lộc Dã. Bấy giờ, năm Tỳ-kheo từ xa trông thấy Ta đi đến, ai cũng lập giao ước với nhau rằng: “Chư Hiền nên biết, đó là Sa-môn Cù- đàm đang đi đến. Người ấy đa dục, đa cầu, ăn với loại ẩm thực thù diệu bằng cơm gạo trắng, thơm ngon cùng với bột, tô, mật, và bôi xoa thân thể bằng dầu mè, nay lại đến đây. Các người cứ ngồi, chớ nên đứng dậy tiếp đón, cũng đừng làm lễ, dành sẵn cho một chỗ đó, nhưng đừng mời ngồi, đến rồi hãy nói: ‘Nếu bạn muốn ngồi, xin cứ tùy ý!’” Rồi Ta đi đến chỗ năm Tỳ-kheo. Bấy giờ, năm Tỳ-kheo không kham nổi uy đức tối thắng, thù diệu của Ta, tức thì rời chỗ ngồi đứng dậy; người thì ôm y bát của Ta; người thì trải chỗ ngồi; người thì lấy nước cho Ta rửa chân. Ta nghĩ rằng: “Những người mê mờ này sao lại không bền chí, đã tự mình ước lập điều ước hẹn, rồi lại làm trái điều giao hẹn.” Ta biết như vậy rồi, bèn ngồi trên chỗ ngồi mà năm Tỳ-kheo đã dọn sẵn. Khi ấy, năm Tỳ-kheo gọi thẳng tên Ta và xưng hô với Ta là “bạn.”
Ta nói với họ:
– Ta là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác, các thầy đừng gọi thẳng tên họ Ta, cũng đừng gọi Ta là “bạn.” Vì sao vậy? Ta đã tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn; Ta tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn; đã sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm pháp, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Họ nói với Ta:
– Này bạn Cù-đàm, trước kia bạn hành như vậy, đạo tích như vậy, khổ hạnh như vậy, mà còn chưa chứng được pháp thượng nhân, gần kề với Thánh tri, Thánh kiến, huống gì ngày hôm nay đa dục, đa cầu, ăn với thực phẩm thù diệu, với gạo trắng thơm ngon, cùng với bột, tô, mật, bôi xoa thân thể bằng dầu mè?
Ta lại nói:
– Này năm Tỳ-kheo, các thầy trước kia có bao giờ thấy Ta như vậy, với các căn thanh tịnh, rạng rỡ sáng ngời chăng?
Bấy giờ, năm Tỳ-kheo lại trả lời Ta:
– Trước kia chúng tôi chưa từng thấy bạn với các căn thanh tịnh, rạng rỡ sáng ngời. Này bạn Cù-đàm, nay bạn với các căn thanh tịnh, hình sắc thù diệu, khuôn mặt sáng ngời.
Ta lúc ấy nói với họ rằng:
– Này năm Tỳ-kheo, có hai lối sống cực đoan mà những người học đạo không nên học: Một là đắm trước dục lạc, nghiệp hèn hạ, là lối sống của phàm phu; hai là tự gây phiền, tự gây khổ, không phải là pháp Hiền thánh, không tương ưng với cứu cánh. Này năm Tỳ-kheo, xả bỏ hai cực đoan ấy, có con đường giữa tạo thành minh, thành trí, thành tựu định, đạt đến tự tại, đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn. Đó là bát chánh đạo, chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Rồi Ta lần lượt giáo hóa năm Tỳ-kheo. Khi giáo hóa cho hai người thì ba người khất thực; ba người mang thức ăn về, đủ cho sáu người ăn. Khi giáo hóa cho ba người thì hai người đi khất thực; hai người mang thức ăn về, đủ cho sáu người ăn. Ta giáo hóa như vậy; họ tìm cầu sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn, sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm pháp, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Rồi Thế Tôn lại nói với họ:
– Này năm Tỳ-kheo, có năm thứ diệu dục, khả ái, khả lạc, khả ý, khả niệm, hoàn toàn tương ưng với dục; đó là sắc được biết bởi mắt, thanh được biết bởi tai, hương được biết bởi mũi, vị được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân. Này năm Tỳ-kheo, phàm phu ngu si, không đa văn, không gặp thiện hữu, không biết Thánh pháp, không điều ngự trong Thánh pháp; họ xúc chạm, đăm chiêu, tham ái, dính mắc, kiêu ngạo, lăn xả vào, thọ dụng, không biết sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Nên biết, họ nghe theo ác ma, làm theo ác ma, rơi vào tay ác ma, bị lưới ma quấn chặt, bị cùm ma khóa chặt, không thoát khỏi sự trói buộc của ma. Này năm Tỳ-kheo, cũng như nai rừng bị dây buộc chặt, nên biết nó phải nghe theo thợ săn, làm theo thợ săn, rơi vào tay thợ săn, bị lưới thợ săn quấn chặt; khi thợ săn đến, không thể trốn thoát. Cũng vậy, này năm Tỳ-kheo, phàm phu ngu si, không đa văn, không gặp thiện hữu, không biết Thánh pháp, không điều ngự trong Thánh pháp; họ đối với năm thứ diệu dục và xúc chạm, đắm nhiễm, tham ái, dính mắc, kiêu ngạo, lăn xả vào, thọ dụng, không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Nên biết, họ phải nghe theo ác ma, làm theo ác ma, rơi vào tay ác ma, bị lưới ma quấn chặt, bị dây ma trói siết, không thoát khỏi sự trói buộc của ma.
Này năm Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử gặp thiện tri thức, hiểu biết Thánh pháp, điều ngự trong Thánh pháp; những vị ấy đối với năm diệu dục không xúc, không nhiễm, không tham, không trước, không kiêu ngạo, không lăn xả vào, không thọ dụng mà không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Nên biết, họ không nghe theo ác ma, không làm theo ác ma, không rơi vào tay ác ma, không bị lưới ma quấn chặt, không bị dây ma buộc siết, thoát khỏi sự trói buộc của ma. Này năm Tỳ-kheo, cũng như nai rừng thoát khỏi sự trói buộc; nên biết, nó không phải nghe theo thợ săn, không rơi vào tay thợ săn, không bị lưới thợ săn quấn chặt, không bị dây thợ săn trói siết; khi thợ săn đến, nó có thể trốn thoát. Cũng vậy, này năm Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử gặp thiện tri thức, hiểu biết Thánh pháp, điều ngự trong Thánh pháp; vị ấy đối với diệu dục không xúc, không nhiễm, không tham, không trước, không kiêu ngạo, không lăn xả vào, không thọ dụng mà không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Nên biết, những người ấy không phải nghe theo ác ma, không phải làm theo ác ma, không rơi vào tay ma, không bị lưới ma quấn chặt, không bị dây ma buộc siết, thoát khỏi sự trói buộc của ma.
Này năm Tỳ-kheo, nếu lúc Như Lai xuất hiện ở thế gian, là bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; vị ấy đoạn trừ, cho đến năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, làm tuệ yếu kém, ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú.
Vị ấy với định tâm thanh tịnh như vậy, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trú vững vàng, đạt đến bất động tâm, tu học và tác chứng Lậu tận trí thông; vị ấy biết như thật: “Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo”, biết như thật: “Đây là lậu, đây là lậu tập, đây là lậu diệt, đây là lậu diệt đạo.” Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu; giải thoát rồi, biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy bây giờ tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì sao vậy? Vị ấy tự mình thấy rõ vô lượng pháp ác, bất thiện đã diệt tận. Cho nên, vị ấy tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Này năm Tỳ-kheo, cũng như trong khu rừng vắng, nơi không có bóng người, ở đó nai rừng tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì sao vậy? Nai rừng ấy không nằm trong cảnh giới của thợ săn; cho nên nó tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Cũng vậy, này năm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lậu tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy lúc bấy giờ tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì sao vậy? Vì vị ấy tự mình thấy vô lượng pháp ác, bất thiện đã diệt tận; cho nên tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Này năm Tỳ-kheo, đó gọi là giải thoát vô dư; đó gọi là sự không bệnh, Vô thượng an ổn Niết-bàn; đó gọi là không già, không chết, không sầu, bi, ưu, não, không ô uế, Vô thượng an ổn Niết-bàn.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.