Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

203. KINH BÔ-LỴ-ĐA
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại Na-nan-đại, trong khu rừng xoài của Ba-hòa-ly.

Bấy giờ, cư sĩ Bô-lỵ-đa mặc chiếc áo trắng tinh, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang guốc thế tục, đi từ vườn này sang vườn khác, từ quán nọ đến quán kia, từ rừng đến rừng, du hành khắp nơi, thong dong tản bộ, nếu gặp các Sa-môn, Phạm chí bèn nói rằng: “Chư Hiền nên biết, tôi lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự.” Các Sa-môn, Phạm chí nói lại bằng những lời dịu dàng rằng:

“Vâng, cư sĩ Bô-lỵ-đa lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự.”

Rồi cư sĩ Bô-lỵ-đa trong khi du hành khắp nơi, thong dong tản bộ đến chỗ đức Phật, chào hỏi xong, chống gậy đứng ngay trước Phật.

Đức Thế Tôn nói:

– Cư sĩ, có chỗ ngồi đó, muốn ngồi thì ngồi!

Cư sĩ Bô-lỵ-đa thưa:

– Thưa Cù-đàm, không thể như vậy, không nên như vậy. Vì sao? Vì tôi lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự. Sao Cù-đàm gọi tôi là cư sĩ?

Thế Tôn nói:

– Ông có hình tướng, tiêu thức như cư sĩ, cho nên Ta gọi ông là cư sĩ. Có chỗ ngồi đó, muốn ngồi thì ngồi!

Thế Tôn lại ba lần nói:

– Này cư sĩ, có chỗ ngồi đó, muốn ngồi thì ngồi!

Cư sĩ Bô-lỵ-đa cũng ba lần thưa:

– Thưa Cù-đàm, không thể như vậy, không nên như vậy. Vì sao? Vì tôi lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự. Sao Cù-đàm gọi tôi là cư sĩ?

Thế Tôn trả lời:

– Ông có hình tướng, tiêu thức như cư sĩ, cho nên Ta gọi ông là cư sĩ. Có chỗ ngồi đó, muốn ngồi thì ngồi!

Rồi Thế Tôn hỏi:
– Ông lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự như thế nào?

Cư sĩ Bô-lỵ-đa đáp:

– Tất cả những tài vật trong nhà, tôi đều mang cho hết rồi tôi sống vô vi, vô cầu, chỉ đi lấy thức ăn để duy trì mạng sống mà thôi. Tôi lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự như vậy.

Thế Tôn nói:

– Này cư sĩ, trong Thánh Pháp, Luật, sự đoạn diệt các tục sự không phải như vậy. Này cư sĩ, trong Thánh Pháp, Luật có tám chi đoạn tuyệt tục sự.

Lúc bấy giờ, cư sĩ Bô-lỵ-đa bèn bỏ gậy, xếp dù, cởi guốc tục, chắp tay hướng về đức Phật và thưa:

– Thưa Cù-đàm trong Thánh Pháp, Luật, thế nào là tám chi đoạn tuyệt tục sự?

Thế Tôn nói:

– Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa sát mà đoạn trừ sát, y cứ trên sự xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ lấy của không cho, y cứ trên sự xa lìa tà dâm mà đoạn trừ tà dâm, y cứ trên sự xa lìa nói láo mà đoạn trừ nói láo, y cứ trên sự không tham trước mà đoạn trừ tham trước, y cứ trên sự không hại nhuế mà đoạn trừ hại nhuế; y cứ trên sự không đố kỵ, thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ, thù nghịch; y cứ trên sự không tăng thượng mạn mà đoạn trừ tăng thượng mạn.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa sát mà đoạn trừ sát? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai giết chóc phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta giết chóc, ấy là gây hại mình và cũng xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất sẽ đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai giết chóc như vậy, chịu quả báo này trong đời này và đời sau. Như vậy, nay ta có nên y cứ trên sự xa lìa sát mà đoạn trừ sát chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự xa lìa sát hại mà đoạn trừ sát hại. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa sát mà đoạn trừ sát.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ lấy của không cho? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai lấy của không cho tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta lấy của không cho, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất sẽ đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai lấy của không cho phải chịu ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ lấy của không cho chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ lấy của không cho. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ lấy của không cho.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa tà dâm mà đoạn trừ tà dâm? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai tà dâm tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta tà dâm, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương thảy đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác thú, sanh vào địa ngục. Ai tà dâm phải chịu ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự xa lìa tà dâm mà đoạn trừ tà dâm chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự xa lìa tà dâm mà đoạn trừ tà dâm. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa tà dâm mà đoạn trừ tà dâm.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa nói láo mà đoạn trừ nói láo? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai nói láo tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta nói láo, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, phỉ báng người khác; chư thiên và các Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai nói láo tất phải chịu ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự xa lìa nói láo mà đoạn trừ nói láo chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự xa lìa nói láo mà đoạn trừ nói láo. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự xa lìa nói láo mà đoạn trừ nói láo.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không tham trước mà đoạn trừ tham trước? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai tham trước tất phải thọ ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta tham trước, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai tham trước tất phải thọ ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự không tham trước mà đoạn trừ tham trước chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự không tham trước mà đoạn trừ tham trước. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không tham trước mà đoạn trừ tham trước.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không hại nhuế mà đoạn trừ hại nhuế? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai hại nhuế tất phải thọ ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta hại nhuế, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất sẽ đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai hại nhuế tất phải thọ ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự không hại nhuế mà đoạn trừ hại nhuế chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự không hại nhuế mà đoạn trừ hại nhuế. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không hại nhuế mà đoạn trừ hại nhuế.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không đố kỵ, thù nghịch mà đoạn trừ sự đố kỵ, thù nghịch? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy:

“Ai đố kỵ, thù nghịch tất phải thọ ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta đố kỵ, thù nghịch, ấy là tự hại và cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai đố kỵ, thù nghịch tất phải thọ ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự không đố kỵ, thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ, thù nghịch chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự không đố kỵ, thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ, thù nghịch. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không đố kỵ, thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ, thù nghịch.

Này cư sĩ, thế nào là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không tăng thượng mạn mà đoạn trừ tăng thượng mạn? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Ai tăng thượng mạn tất phải thọ ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta có tăng thượng mạn, ấy là tự hại mà cũng là xuyên tạc, hủy báng người khác; chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta; các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta; thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Ai có tăng thượng mạn tất phải thọ ác báo này trong đời này và đời sau như vậy. Nay ta có nên y cứ trên sự không tăng thượng mạn mà đoạn trừ tăng thượng mạn chăng?” Rồi vị ấy y cứ trên sự không tăng thượng mạn mà đoạn trừ tăng thượng mạn. Như vậy là đa văn Thánh đệ tử y cứ trên sự không tăng thượng mạn mà đoạn trừ tăng thượng mạn.

Đó là tám chi đoạn tuyệt tục sự trong Thánh Pháp, Luật.

Cư sĩ Bô-lỵ-đa hỏi:

– Thưa Cù-đàm, trong Thánh Pháp, Luật chỉ như vậy là đoạn tuyệt tục sự hay còn những điều khác nữa?

Thế Tôn nói:

– Trong Thánh Pháp, Luật không chỉ có chừng đó đoạn tuyệt tục sự, mà còn tám chi đoạn tuyệt tục sự khác đạt đến chứng ngộ.

Cư sĩ Bô-lỵ-đa nghe xong, bèn cởi khăn trắng, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Thưa Cù-đàm, thế nào nói là trong Thánh Pháp, Luật còn có tám chi đoạn tuyệt tục sự khác đạt đến chứng ngộ?

Thế Tôn đáp:

– Này cư sĩ, cũng như một con chó đói, gầy ốm mệt mỏi, đến bên chỗ mổ bò. Người đồ tể hay đệ tử của người đồ tể quăng cho con chó một khúc xương đã rút tỉa hết thịt. Con chó gặm khúc xương, rồi chạy đến chỗ này chỗ kia mà gặm, rách môi, mẻ răng hoặc gây thương tổn đến cuống họng, nhưng con chó không vì vậy mà hết đói. Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Dục vọng như khúc xương khô. Đức Thế Tôn nói dục vọng như khúc xương khô, vui ít, khổ nhiều, đầy dẫy nguy hiểm nên xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác, bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục của thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện đó.”

Này cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một miếng thịt rớt trên khoảng đất trống, hoặc quạ, hoặc diều mang miếng thịt ấy đi. Rồi những con quạ, con diều khác đuổi theo tranh giành. Ý cư sĩ nghĩ sao? Nếu quạ, diều ấy không chịu xả bỏ tức khắc miếng thịt này thì các con quạ, con diều khác vẫn đuổi theo để giành giựt chăng?

Cư sĩ đáp:

– Thật sự như vậy, thưa Cù-đàm!

– Ý cư sĩ nghĩ sao? Nếu quạ, diều ấy có thể xả bỏ tức khắc miếng thịt này thì các con quạ, con diều khác có còn đuổi theo để giành giựt chăng?

Cư sĩ đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm!

– Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: “Dục vọng như miếng thịt. Thế Tôn nói dục vọng như miếng thịt, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác, bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy nên tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như một người tay cầm một bó đuốc đang cháy, ngược gió mà đi. Ý cư sĩ nghĩ sao? Nếu người ấy không liệng bỏ tức khắc thì nhất định sẽ bị cháy tay và các chi thể khác chăng?

Cư sĩ đáp:

– Thật sự như vậy, thưa Cù-đàm!

– Ý cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc thì sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng?

Cư sĩ đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm!

– Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử tư duy rằng: “Dục vọng như bó đuốc đang cháy. Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác, bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một hầm lửa lớn. Trong đó đầy những lửa nhưng không có khói, không có ngọn. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc chứ không muốn đau khổ, rất ghét sự đau khổ, muốn sống chứ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý cư sĩ nghĩ sao? Người ấy lại nhảy vào hầm lửa này chăng?

Cư sĩ đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm! Vì sao? Vì người ấy thấy hầm lửa liền nghĩ rằng: “Nếu rơi xuống hầm lửa, nhất định chết chứ không nghi ngờ, dù không chết, nhất định phải chịu đựng đau đớn vô cùng.” Người ấy thấy hầm lửa bèn nghĩ đến việc lìa xa, ước mong sự xả ly.

– Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy: “Dục vọng như hầm lửa. Thế Tôn nói dục vọng như hầm lửa, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác, bất thiện pháp thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một con rắn độc to lớn, rất dữ, rất độc, màu đen dễ sợ. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc chứ không muốn đau khổ, rất ghét sự đau khổ, muốn sống chứ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý cư sĩ nghĩ sao? Người ấy há lại thò tay hay các chi thể khác cho con rắn và nói rằng: “Này, mổ đi! Này, mổ đi!”

Cư sĩ đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm! Vì sao vậy? Người ấy thấy con rắn độc bèn nghĩ rằng: “Nếu ta thò tay hay các chi thể khác cho con rắn mổ, nhất định chết chứ không nghi ngờ, dù không chết thì nhất định phải chịu đau đớn vô cùng.” Người ấy thấy con rắn độc bèn nghĩ đến sự lánh xa, ước mong xả ly.

Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy: “Dục vọng như rắn độc. Thế Tôn nói dục vọng như rắn độc, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự ly dục, ác bất thiện pháp thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như một người nằm mộng, thấy mình sung túc năm thứ dục lạc thỏa thích, nhưng khi tỉnh dậy, một thứ cũng không thấy. Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy: “Dục vọng như giấc mộng. Thế Tôn nói dục vọng như giấc mộng, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như một người vay mượn vật dụng hưởng lạc, hoặc cung điện, lầu các, hoặc vườn hào, ao tắm, hoặc voi, ngựa, xe cộ, hoặc chăn gấm, mền bông, hoặc nhẫn, vòng, xuyến, hoặc hương, anh lạc, vòng cổ, hoặc tràng hoa, vàng báu, hoặc danh y, thương phục; nhiều người trông thấy bèn ca ngợi rằng: “Như vậy tốt lành thay! Như vậy sung sướng thay! Nếu có tài vật gì thì nên hưởng thụ thỏa thích cho đến cùng như vậy.” Nhưng chủ nhân có thể lấy lại, hay sai người lấy lại bất cứ lúc nào mà họ muốn. Chủ nhân bèn tự mình lấy lại, hay sai người lấy lại; những người khác trông thấy, bèn nói với nhau rằng: “Nó là người vay mượn, thật sự là lừa gạt, chứ không phải không vay mượn. Vì sao? Vì chủ nhân của những thứ đó có thể lấy lại, hay sai người khác lấy lại bất cứ lúc nào mà họ muốn; và họ sẽ tự mình lấy lại, hay sai người khác lấy lại.” Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy: “Dục vọng như đồ vay mượn, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Này cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một gốc cây ăn trái to lớn. Cây ấy thường có nhiều trái ngon, đẹp mắt. Một người đi đến, đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái. Người ấy nghĩ rằng: “Cây này thường có nhiều trái ngon, đẹp mắt. Ta đang đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái, và dưới gốc cây không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về. Nhưng ta biết leo cây. Bây giờ, ta có nên leo lên cây này chăng?” Nghĩ xong, người đó bèn leo lên cây. Lại có một người khác, đói, gầy ốm, mệt mỏi muốn được ăn trái, cầm một cái búa rất bén, nghĩ rằng: “Cây này thường có nhiều trái ngon, đẹp mắt, nhưng dưới gốc cây không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về. Ta lại không biết leo cây. Bây giờ, ta có nên đốn ngã cây này chăng?” Người đó bèn đốn ngã cây ấy. Ý cư sĩ nghĩ sao? Người ở trên cây nếu không xuống nhanh, khi cây ngã xuống đất, có bị gãy tay hoặc các chi thể khác chăng?

Cư sĩ đáp:

– Thật sự như vậy, thưa Cù-đàm!

– Ý cư sĩ nghĩ sao? Nếu người trên cây leo nhanh xuống, khi cây ngã xuống đất, há lại bị gãy tay hay các chi thể khác chăng?

Cư-sĩ đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm!

– Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy: “Dục vọng như trái cây. Thế Tôn nói dục vọng như trái cây, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác, bất thiện pháp này thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện này!”

Đó gọi là trong Thánh Pháp, Luật còn có tám chi đoạn tuyệt tục sự khác, đưa đến chứng ngộ.

Này cư sĩ, rồi vị ấy, giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Rồi vị ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân thọ lạc, điều mà Thánh gọi là Thánh sở xả niệm lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Rồi vị ấy, lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn có cũng diệt, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú.

Rồi vị ấy với định tâm thanh tịnh như vậy, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trú, vững vàng, đạt đến bất động tâm, tu học và chứng ngộ Lậu tận trí thông, biết như thật: “Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo.” Biết như thật: “Đây là lậu, đây là lậu tập, đây là lậu diệt, đây là lậu diệt đạo.” Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu, giải thoát rồi, liền biết mình đã giải thoát. Biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.”

Khi đức Phật nói pháp này, cư sĩ Bô-lỵ-đa viễn ly trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh. Lúc bấy giờ, cư sĩ Bô-lỵ-đa thấy pháp, đắc pháp, chứng giác bạch tịnh pháp, đoạn nghi, trừ hoặc, không còn tôn thờ ai, không còn do ai, không còn do dự, đã an trú nơi quả chứng, đối với pháp của Thế Tôn đã được vô sở úy, bèn cúi đầu đảnh lễ chân Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo-tăng! Cúi mong đức Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến lúc mạng chung! Bạch Thế Tôn, trước đây con mặc chiếc áo trắng tinh, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù và mang guốc tục, đi từ vườn này sang vườn khác, từ quán nọ đến quán kia, từ rừng đến rừng, du hành khắp nơi, thong dong tản bộ, nếu gặp các Sa-môn, Phạm chí, bèn nói như vầy: “Chư Hiền, tôi lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự.” Các Sa-môn, Phạm chí ấy bằng những lời dịu dàng nói với con rằng: “Vâng! Cư sĩ Bô-lỵ-đa lánh tục, đoạn tục, xả các tục sự.”

Bạch Thế Tôn, con lúc bấy giờ, các vị ấy thật sự vô trí, lại đặt vào chỗ trí, thật sự vô trí mà thờ tự, thật sự vô trí mà cúng thực, thật sự vô trí mà phụng sự như người trí. Bạch Thế Tôn, kể từ hôm nay, chúng Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn đây mới thật sự là có trí, xứng đáng đặt ở chỗ trí, thật sự có trí, xứng đáng thờ tự, thật sự có trí, xứng đáng cúng thực, thật sự có trí, xứng đáng phụng sự người trí tuệ.

Bạch Thế Tôn, nay con lại lần nữa xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo-tăng! Cúi mong Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc kể từ hôm nay đến suốt đời, tự quy y cho đến lúc mạng chung. Bạch Thế Tôn, trước kia con kính tin, kính trọng các Sa-môn, Phạm chí ngoại đạo; kể từ hôm nay con đoạn tuyệt. Bạch Thế Tôn, nay lần thứ ba con xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo-tăng! Cúi mong đức Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến lúc mạng chung!

Đức Phật thuyết như vậy, cư sĩ Bô-lỵ-đa và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.