Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

202. KINH TRÌ TRAI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trú trong Đông Viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường.

Bấy giờ, Lộc Tử Mẫu Tỳ-xá-khư, vào lúc sáng sớm, tắm gội, mặc chiếc áo trắng tinh, dẫn các con dâu với đoàn tùy tùng vây quanh đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ rồi đứng sang một bên. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này nữ cư sĩ, bà vừa tắm gội chăng?

Nữ cư sĩ thưa:

– Bạch Thế Tôn, hôm nay con trì trai. Bạch Thiện Thệ, hôm nay con trì trai.

Đức Thế Tôn hỏi:

– Này nữ cư sĩ, hôm nay bà trì loại trai nào? Vì trai có ba loại. Những gì là ba? Thứ nhất, loại trai của mục đồng; thứ hai, trai của Ni-kiền và thứ ba, tám chi Thánh trai.

Này nữ cư sĩ, thế nào là trai của mục đồng? Mục đồng buổi sáng sớm thả trâu trong đầm, buổi xế trưa dẫn về thôn; khi trở về đến thôn nó nghĩ rằng: “Ngày hôm nay ta thả trâu ở chỗ này, ngày mai ta sẽ thả trâu ở chỗ kia. Ngày hôm nay ta cho trâu uống nước ở chỗ này, ngày mai ta sẽ cho trâu uống nước tại chỗ kia. Hôm nay ta cho trâu ngủ đêm tại chỗ này, ngày mai ta sẽ cho trâu ngủ đêm tại chỗ kia.” Này nữ cư sĩ, cũng vậy, nếu người trì trai nghĩ rằng: “Ngày hôm nay ta ăn đồ ăn như vậy, ngày mai ta sẽ ăn đồ ăn như kia. Ngày hôm nay ta uống thức uống như vậy, ngày mai ta sẽ uống thức uống như kia. Ngày hôm nay ta dùng thức ăn như vầy, ngày mai ta dùng thức ăn như thế kia.” Người ấy ở trong ngày và đêm hoan lạc, đắm trước trong dục vọng như vậy. Đó là loại trai của mục đồng. Nếu trì loại trai của mục đồng như vậy thì không thu hoạch được đại lợi, không được đại quả, không có đại công đức, không được phát triển.

Này nữ cư sĩ, thế nào là loại trai của Ni-kiền? Nếu có người xuất gia học theo Ni-kiền, vị ấy khuyên người rằng: “Ngươi đối với chúng sanh ở ngoài một trăm do-diên về phía Đông, để ủng hộ chúng sanh ấy, hãy loại bỏ đao gậy. Cũng vậy, đối với phương Nam, phương Tây và phương Bắc, ngoài một trăm do-diên mà có chúng sanh nào, vì để ủng hộ chúng sanh ấy, hãy loại bỏ đao gậy.” Người ấy khuyến khích, sách tấn người khác như vầy: “Hoặc chúng sanh có tưởng, được thủ hộ, hoặc chúng sanh không tưởng, không được thủ hộ, ngươi vào ngày mười lăm là ngày nói biệt giải thoát, hãy cởi bỏ y phục, để mình trần truồng, đứng quay về hướng Đông, nói như vầy: ‘Ta không có cha mẹ, không thuộc về cha mẹ. Ta không vợ con, không thuộc về vợ con. Ta không nô tỳ, không thuộc về nô tỳ.’” Này nữ cư sĩ, người ấy không khuyến khích, sách tấn lời nói chân thật, nhưng ngược lại, khuyến khích, sách tấn bằng những lời hư dối. Người ấy ngày ngày gặp mặt cha mẹ mình và nghĩ rằng: “Đây là cha mẹ ta.” Cha mẹ người ấy ngày ngày cũng thấy con mình và cũng nghĩ rằng: “Đây là con ta.” Người ấy gặp mặt vợ con và nghĩ rằng: “Đây là vợ con ta.” Vợ con cũng thấy người ấy và cũng nghĩ rằng: “Đây là tôn trưởng ta.” Người ấy gặp mặt nô tỳ cũng nghĩ rằng: “Đây là nô tỳ của ta.” Nô tỳ cũng thấy người ấy và cũng nghĩ rằng: “Đây là chủ của ta.” Người ấy thọ dụng dục lạc này, không được cho mà thọ dụng, chứ không phải được cho mà thọ dụng. Đó gọi là loại trai của Nikiền. Nếu thọ trì loại trai của Ni-kiền như vậy thì không thu hoạch được đại lợi, không được đại quả, không được đại công đức, không được phát triển.

Này nữ cư sĩ, thế nào là tám chi Thánh trai? Đa văn Thánh đệ tử khi trì trai tư duy như vầy: “A-la-hán chân nhân trọn đời không sát sanh, đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ đao gậy, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Vị ấy đối với sự sát sanh tâm đã tịnh trừ. Tôi cũng trọn đời xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ đao gậy, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Đối với việc sát sanh, nay tôi tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, cho nên nói là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời không lấy của không cho, đoạn trừ sự lấy của không cho, những gì được cho rồi mới lấy, vui thích trong việc lấy của được cho, thường ưa bố thí, tâm vui thích sự phóng xả hoan hỷ, không bỏn xẻn, không trông chờ báo đáp, không để sự trộm cắp che lấp tâm mình, hay tự chế ngự. Vị ấy đối với việc không cho mà lấy, tâm đã tịnh trừ. Tôi cũng trọn đời xa lìa sự lấy chỗ không cho, đoạn trừ sự lấy của không cho, những gì được cho mới lấy, vui thích trong việc lấy của được cho, thường ưa bố thí, tâm vui thích sự phóng xả, hoan hỷ, không bỏn xẻn, không trông chờ báo đáp, không để sự trộm cắp che lấp tâm mình, hay tự chế ngự. Đối với việc không cho mà lấy, nay tôi tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời xa lìa phi Phạm hạnh, đoạn trừ phi Phạm hạnh, tu hành Phạm hạnh, chí thành, tâm tịnh, sống không xú uế, ly dục, đoạn dâm. Vị ấy đối với phi Phạm hạnh, tâm đã tịnh trừ. Tôi nay trong một ngày một đêm này xa lìa phi Phạm hạnh, đoạn trừ phi Phạm hạnh, tu hành Phạm hạnh, chí thành, tâm tịnh, sống không xú uế, ly dục, đoạn dâm. Đối với phi Phạm hạnh, nay tôi tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời không nói láo, đoạn trừ sự nói láo, chỉ nói lời chắc thật, vui thích sự thật, an trú nơi sự thật, được mọi người tin tưởng, không lừa gạt thế gian. Vị ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh trừ. Tôi nay trọn đời không nói láo, đoạn trừ sự nói láo, chỉ nói lời chắc thật, vui thích sự thật, an trú nơi sự thật, được mọi người tin tưởng, không lừa gạt thế gian. Đối với sự nói láo, tôi nay tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời xa lìa sự uống rượu, buông lung, đoạn trừ sự uống rượu, buông lung. Vị ấy đối với việc uống rượu, buông lung, tâm đã tịnh trừ. Tôi cũng trọn đời xa lìa sự uống rượu, buông lung, đoạn trừ sự uống rượu, buông lung. Đối với việc uống rượu, buông lung, nay tôi tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời xa lìa giường lớn, cao, rộng; đoạn trừ giường lớn, cao, rộng; vui thích nằm chỗ thấp, hoặc giường hoặc trải cỏ. Vị ấy đối với giường lớn, cao, rộng, tâm đã tịnh trừ. Tôi nay trong một ngày một đêm này xa lìa giường lớn, cao, rộng; đoạn trừ giường lớn, cao, rộng; vui thích nằm chỗ thấp, hoặc giường hoặc trải cỏ. Đối với giường lớn, cao, rộng, tôi nay tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời xa lìa tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe; đoạn trừ tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe. Vị ấy đối với tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe, tâm đã tịnh trừ. Tôi nay trong một ngày một đêm này xa lìa tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe; đoạn trừ tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe. Đối với tràng hoa, anh lạc, hương bột, ca, vũ, xướng, kỹ, và đi đến xem nghe, nay tôi tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau không khác, do đó gọi là trai.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy như vầy: “A-lahán chân nhân trọn đời xa lìa sự ăn phi thời, đoạn trừ sự ăn phi thời, ngày ăn một bữa, không ăn đêm, vui thích sự ăn đúng thời. Vị ấy đối với sự ăn phi thời, tâm đã tịnh trừ. Tôi nay trong một ngày một đêm này xa lìa sự ăn phi thời, đoạn trừ sự ăn phi thời. Đối với sự ăn phi thời, tôi nay tịnh trừ tâm ấy.” Ta coi chi này như của A-la-hán, ngang nhau, không khác, do đó gọi là trai.

Người ấy sau khi đến với tám chi Thánh trai này rồi, để tiến lên, lại nên tu tập năm pháp.

Những gì là năm? Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng Như Lai rằng: “Đức Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu.” Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Như Lai cho nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền bị diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng bị diệt. Cũng như một người trên đầu có cáu bẩn, do mỡ, nước nóng, sức người tắm gội cho nên được sạch. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng Như Lai rằng: “Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu.” Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Như Lai cho nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền bị diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng bị diệt. Đó gọi là đa văn Thánh đệ tử thọ trì Phạm trai, cùng cộng hội với Phạm, nhân Phạm cho nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền bị diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng diệt.

Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng Pháp rằng: “Pháp này do Thế Tôn giảng thuyết, toàn thiện, cứu cánh, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh trí, được thấy bởi chánh trí, được chứng giác bởi chánh trí.” Người ấy sau khi niệm tưởng như vậy rồi, ác tham lam nếu có liền bị diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng bị diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Pháp nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Cũng như một người trong mình có cáu bẩn, nhờ bột tắm nóng và sức người tắm gội kỹ cho nên liền được sạch sẽ. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng Pháp rằng: “Pháp này do Thế Tôn giảng thuyết, toàn thiện, cứu cánh, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh trí, được thấy bởi chánh trí, được chứng giác bởi chánh trí.” Người ấy sau khi niệm tưởng Pháp như vậy rồi, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Pháp cho nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng diệt. Này nữ cư sĩ, đó gọi là đa văn Thánh đệ tử thọ trì Pháp trai, cùng cộng hội với Pháp, nhân Pháp cho nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ác, bất thiện nếu có cũng được diệt.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng chúng Tăng rằng: “Tăng là đệ tử Thế Tôn, khéo thú hướng, chất trực, hành yếu, hành thú; trong Tăng chúng của Như Lai thật sự có A-la-hán thú, A-la-hán quả chứng, A-na-hàm thú, A-na-hàm quả chứng, Tư-đà-hàm thú, Tư-đà-hàm quả chứng, Tu-đà-hoàn thú, Tu-đà-hoàn quả chứng; đó là bốn đôi, tám hạng Thánh sĩ; đó là Tăng chúng đệ tử Thế Tôn, thành tựu giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, xứng đáng mời gọi, xứng đáng thỉnh, xứng đáng cúng dường, xứng đáng phụng sự, xứng đáng kính trọng, là ruộng phước tốt cho trời và người.” Người ấy sau khi niệm tưởng như vậy rồi, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Tăng nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Cũng như một người nơi áo có cáu bẩn, bất tịnh, nhờ tro, bột kết, bột giặt, nước nóng, sức người giặt giũ nên nó được sạch sẽ. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng Tăng rằng: “Tăng là đệ tử Thế Tôn, khéo thú hướng, chất trực, hành yếu, hành thú; trong Tăng chúng của Như Lai thật sự có A-la-hán thú, A-la-hán quả chứng, A-na-hàm thú, A-na-hàm quả chứng, Tư-đà-hàm thú, Tư-đà-hàm quả chứng, Tu-đà-hoàn thú, Tu-đà-hoàn quả chứng; đó là bốn đôi, tám hạng Thánh sĩ; đó là Tăng chúng của Thế Tôn, thành tựu giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, xứng đáng mời gọi, xứng đáng thỉnh, xứng đáng cúng dường, xứng đáng phụng sự, xứng đáng kính trọng, là ruộng phước tốt cho trời và người.” Người ấy niệm tưởng Tăng như vậy, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Tăng nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Đó gọi là đa văn Thánh đệ tử thọ trì Tăng trai, cùng Tăng cộng hội, nhân Tăng mà tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, tư duy giới mình đang thọ trì, không sứt, không thủng, không uế, không ô, rất rộng, rất lớn, không trông chờ báo đáp, được bậc trí khen ngợi, khéo trọn đủ, khéo thú hướng, khéo thọ, khéo trì. Người ấy sau khi niệm tưởng giới mình đang thọ rồi, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi giới nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Cũng như một tấm gương đóng bụi nhơ không sáng, nhờ đá, đá mài, ngọc oanh và sức người lau chùi, mài giũa mà được minh tịnh. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng giới mình đang thọ trì, không sứt, không thủng, không ô, không uế, rất rộng, rất lớn, không trông chờ báo đáp, được bậc trí khen ngợi, khéo trọn đủ, khéo thú hướng, khéo thọ, khéo trì. Người ấy sau khi niệm tưởng giới mình đang thọ trì như vậy, ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi giới nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Đó gọi là đa văn Thánh đệ tử thọ trì giới trai, cùng giới cộng hội, nhân giới tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt.

Lại nữa, này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng chư thiên rằng: “Thật sự có Tứ Thiên Vương. Chư thiên ấy nếu thành tựu tín, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tín ấy. Chư thiên ấy nếu thành tựu giới, văn, thí, tuệ, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tuệ ấy. Thật sự có Tam Thập Tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa Lạc thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên. Chư thiên ấy thành tựu tín, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tín ấy. Chư thiên ấy nếu thành tựu giới, văn, thí, tuệ, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tuệ ấy.” Người ấy sau khi niệm tưởng như vậy rồi và chư thiên có tín, giới, văn, thí, tuệ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác bất thiện nếu có cũng được diệt. Này nữ cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi chư thiên nên tâm tĩnh, được hỷ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt. Cũng như vàng ròng thượng sắc bị bụi đóng, bất tịnh, nhờ lửa, bài, kềm, chùy, đất đỏ, sức người lau chùi, mài giũa mà được minh tịnh. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử khi trì trai, niệm tưởng chư thiên rằng: “Thật sự có Tứ Thiên Vương. Chư thiên ấy nếu thành tựu tín, mạng chung nơi này được sanh nơi kia. Tôi cũng có tín ấy. Chư thiên nhân ấy nếu thành tựu giới, văn, thí, tuệ, mạng chung nơi đây được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tuệ ấy. Thật sự có Tam Thập Tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa Lạc thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên. Chư thiên ấy nếu thành tựu tín, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tín ấy. Chư thiên ấy nếu thành tựu giới, văn, thí, tuệ, mạng chung nơi này được sanh nơi ấy. Tôi cũng có tuệ ấy.” Người ấy niệm tưởng như vậy và chư thiên có tín, giới, văn, thí, tuệ; ác tham lam nếu có liền được diệt; pháp ô uế, ác, bất thiện nếu có cũng được diệt.

Này nữ cư sĩ, nếu hành trì tám chi Thánh trai như vậy và ở đây, với mười sáu đại quốc này: Một là Ương-già, hai là Ma-kiệt-đà, ba là Ca-thi, bốn là Câu-tátla, năm là Câu-lâu, sáu là Ba-xà-la, bảy là A-nhiếp-bối, tám là An-hòa-đàn-đề, chín là Chi-đề, mười là Bạt-kỳ, mười một là Bạt-ta, mười hai là Bạt-la, mười ba là Tô-ma, mười bốn là Tô-la-tra, mười lăm là Dụ-ni, mười sáu là Kiếm-phù. Trong các nước này, những sở hữu tiền tài bảo vật, kim ngân, ma-ni, trân châu, lưu ly, nẵng-già, bích ngọc, san hô, lưu thiệu, bệ-lưu, bệ-lặc, mã não, đồi mồi, xích thạch, tuyền châu, và giả sử một người làm vua trong đó, sẽ được sử dụng tự tại tùy ý. Nhưng người ấy so với người thọ trì tám chi Thánh trai, hoàn toàn không bằng một phần mười sáu.

Này nữ cư sĩ, Ta nhân đó mà nói như vầy: “Lạc thú của nhơn vương không bằng lạc thú của chư thiên.” Nếu ở nhân gian năm mươi năm, ở Tứ Thiên Vương mới là một ngày một đêm. Như vậy, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, năm trăm năm như vậy là tuổi thọ của Tứ Thiên Vương. Này nữ cư sĩ, tất có trường hợp này, là thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ sanh lên Tứ Thiên Vương.

Này nữ cư sĩ, do đó mà Ta nói như vầy: “Lạc thú nhơn vương không bằng lạc thú chư thiên.” Nếu nhân gian sống một trăm tuổi thì ở Tam Thập Tam thiên mới một ngày một đêm. Như vậy, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, và một ngàn năm như vậy là tuổi thọ của Tam Thập Tam thiên. Này nữ cư sĩ, tất có trường hợp này, là thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên Tam Thập Tam thiên.

Này nữ cư sĩ, Ta nhân đó mà nói như vầy: “Lạc thú nhơn vương không bằng lạc thú chư thiên.” Nếu ở nhân gian hai trăm năm, ở Diệm-ma thiên mới là một ngày một đêm. Như vậy, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, hai ngàn năm như vậy là tuổi thọ của Diệm-ma thiên. Này nữ cư-sĩ, tất có trường hợp này, là thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên Diệm-ma thiên.

Này nữ cư sĩ, Ta nhân đó mà nói như vầy: “Lạc thú nhơn vương không bằng lạc thú chư thiên.” Nếu ở nhân gian bốn trăm năm, ở Đâu-suất-đà thiên mới là một ngày một đêm. Như vậy ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, bốn ngàn năm như vậy là tuổi thọ của Đâu-suất-đà thiên. Này nữ cư sĩ, tất có trường hợp này, là một thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên Đâu-suất-đà thiên.

Này nữ cư sĩ, Ta nhân đó mà nói như vầy: “Lạc thú nhơn vương không bằng lạc thú chư thiên.” Nhân gian tám trăm tuổi, ở Hóa Lạc thiên mới là một ngày một đêm. Như vậy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tám ngàn năm như vậy là tuổi thọ của Hóa Lạc thiên. Này nữ cư sĩ, tất có trường hợp này, là thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên trong Hóa Lạc thiên.

Này nữ cư sĩ, Ta nhân nơi đó mà nói như vầy: “Lạc thú nhơn vương không bằng lạc thú chư thiên.” Nhân gian một ngàn sáu trăm năm, ở Tha Hóa Lạc thiên mới là một ngày một đêm. Như vậy, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, một vạn sáu ngàn năm như vậy là tuổi thọ của Tha Hóa Lạc thiên. Này nữ cư sĩ, tất có trường hợp này, là thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thọ trì tám chi Thánh trai, thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên trong Tha Hóa Lạc thiên.

Lúc bấy giờ, Lộc Tử Mẫu Tỳ-xá-khư chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, tám chi Thánh trai thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, đại lợi, đại quả, có đại công đức, có đại quảng bố. Bạch Thế Tôn, con từ nay cho đến trọn đời xin thọ trì tám chi Thánh trai này, tùy theo năng lực mà bố thí, tu phước.

Rồi Lộc Tử Mẫu sau khi nghe những lời Phật dạy, khéo thọ trì, khéo tụng tập, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, đi quang ba vòng rồi lui về.

Đức Phật thuyết như vậy, Lộc Tử Mẫu Tỳ-xá-khư và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.