Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, ở trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Trà-đế Kê-hòa-đa-tử sanh ác kiến như vầy: “Tôi hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.’”
Các Tỳ-kheo nghe như vậy, liền đi đến chỗ Tỳ-kheo Trà-đế hỏi:
– Này Trà-đế, thầy thật có nói như vầy: “Tôi hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’” chăng?
Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
– Này chư Hiền, tôi thực sự hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: “Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.”
Bấy giờ, các Tỳ-kheo khiển trách:
– Thầy chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc đức Thế Tôn; xuyên tạc đức Thế Tôn là không tốt; đức Thế Tôn cũng không nói như vậy. Này Trà-đế, thức này do duyên mà sanh khởi. Đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói thức này do duyên mà sanh khởi, có duyên thì sanh, không duyên thì diệt. Này Trà-đế, thầy nên xả bỏ ác kiến ấy đi.
Tỳ-kheo Trà-đế bị các Tỳ-kheo khiển trách nhưng vẫn cố chấp ác kiến của mình và nhất quyết nói: “Đây là điều chân thật, ngoài ra là hư vọng”, và lặp lại ba lần như vậy.
Các Tỳ-kheo không thể khuyên Trà-đế xả bỏ ác kiến ấy, liền đứng dậy ra về, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi xuống một bên và bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Trà-đế sanh ác kiến như vầy: “Tôi hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.’” Bạch Thế Tôn, chúng con nghe vậy, liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy và hỏi:
“Này Trà-đế, thật thầy có nói như vầy: ‘Tôi hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’ chăng?’”
Trà-đế trả lời chúng con rằng:
“Này chư Hiền, tôi thật sự hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.’”
Chúng con khiển trách rằng:
“Thầy chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc đức Thế Tôn; xuyên tạc đức Thế Tôn là không tốt; đức Thế Tôn cũng không nói như vậy. Này Trà-đế, thức này do duyên mà sanh khởi. Đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói thức này do duyên mà sanh khởi, có duyên thì sanh, không duyên thì diệt. Này Trà-đế, thầy nên xả bỏ ác kiến ấy đi.”
Chúng con khiển trách như vậy, nhưng Tỳ-kheo ấy vẫn cố chấp ác kiến của mình và nhất quyết nói: “Đây là chân thật, ngoài ra là hư vọng”, và lặp lại ba lần như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con không thể khuyên Tỳ-kheo Trà-đế xả bỏ ác kiến ấy, liền đứng dậy ra về.
Đức Thế Tôn nghe xong, bảo một Tỳ-kheo:
– Thầy hãy đến chỗ Tỳ-kheo Trà-đế nói như vầy: “Đức Thế Tôn gọi thầy.”
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo ấy vâng lời đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi, đến chỗ Tỳ-kheo Trà-đế và nói lại lời Phật dạy:
– Đức Thế Tôn gọi thầy!
Tỳ-kheo Trà-đế liền đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn hỏi:
– Thầy có thật nói như vầy: “Tôi hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’” chăng?
Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
– Bạch Thế Tôn, con thật sự hiểu đức Thế Tôn nói pháp như vầy: “Thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.”
Đức Thế Tôn hỏi:
– Thế nào là thức? Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
– Thức này nói năng, cảm thọ, hành động và sai bảo hành động, đứng dậy và sai bảo đứng dậy. Nghĩa là nó tạo tác các nghiệp thiện ác chỗ này, chỗ kia để rồi thọ báo.
Đức Thế Tôn khiển trách:
– Này Trà-đế, do đâu mà thầy hiểu Ta nói pháp như vậy? Thầy nghe từ miệng người nào mà nói Ta nói pháp như vậy? Thầy là kẻ mê mờ. Ta không nói một chiều mà thầy lại nói một chiều. Khi nghe các Tỳ-kheo khiển trách, thầy bấy giờ đáng lẽ phải đúng như pháp mà trả lời. Nay Ta sẽ hỏi các Tỳ-kheo.
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
– Các thầy cũng hiểu Ta nói pháp như vầy: “Thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác” chăng?
Bấy giờ, các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn hỏi:
– Các thầy hiểu Ta nói pháp như thế nào?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Chúng con hiểu Thế Tôn nói pháp như vầy: “Thức do duyên mà sanh khởi. Thế Tôn nói thức do duyên mà sanh khởi; thức có duyên thì sanh, không duyên thì diệt.” Chúng con hiểu Thế Tôn nói pháp như vậy.
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, các thầy hiểu Ta nói pháp như vậy. Vì sao? Ta cũng nói pháp như vầy: “Thức do duyên mà sanh khởi. Ta nói thức do duyên mà sanh khởi; thức có duyên thì sanh, không duyên thì diệt.” Và thức tùy theo những gì nó duyên vào để sanh khởi mà gọi tên theo duyên ấy: Duyên mắt và sắc mà sanh khởi thức, thức sanh khởi ấy được gọi là nhãn thức; tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy; duyên pháp và ý mà sanh khởi thức, thức sanh khởi ấy được gọi là ý thức. Ví như lửa, tùy theo những gì nó duyên vào để sanh khởi mà gọi tên theo duyên đó: Lửa duyên cây mà sanh khởi được gọi là lửa cây; lửa duyên cỏ, rác mà sanh khởi được gọi là lửa cỏ, lửa rác. Cũng vậy, thức tùy theo những gì nó duyên vào để sanh khởi mà gọi tên theo duyên đó: Duyên mắt và sắc mà sanh khởi thức, thức sanh khởi ấy được gọi là nhãn thức; tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy; duyên pháp và ý mà sanh khởi thức, thức sanh khởi ấy được gọi là ý thức.”
Đức Thế Tôn lại khen:
– Lành thay! Lành thay! Các thầy hiểu Ta nói pháp như vậy. Nhưng Tỳ- kheo Trà-đế này là người mê mờ, ghi nhớ và hiểu biết điên đảo văn và nghĩa; rồi do ghi nhớ và hiểu biết điên đảo cho nên xuyên tạc Ta để tự làm tổn thương; có phạm, có tội; đó là điều mà các vị Phạm hạnh có trí không hoan hỷ và cũng là một đại tội. Này người mê mờ, có biết chỗ ác, bất thiện này chăng?
Bấy giờ, Tỳ-kheo Trà-đế bị Thế Tôn quở trách trước mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không có lời để biện bạch, suy nghĩ mông lung. Đức Thế Tôn sau khi quở trách trước mặt Tỳ-kheo Trà-đế rồi nói với các Tỳ-kheo rằng:
– Nay Ta sẽ nói pháp rốt ráo, không phiền, không nhiệt, hằng hữu, bất biến cho các thầy nghe. Những người có trí phải quán như vậy. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy khéo suy niệm!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Đức Phật nói: – Đây là một chơn thể, các thầy thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Như Lai là một chơn thể, các thầy thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Khi Như Lai diệt rồi, cái được gọi là chơn thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các thầy thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Đây là một chơn thể, các thầy đã thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, đã thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Như Lai là một chơn thể, các thầy đã thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, đã thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Khi Như Lai diệt rồi, cái được gọi là chơn thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các thầy đã thấy chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, đã thấy!
Đức Thế Tôn nói:
– Đây là một chơn thể, các thầy có nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn nói:
– Như Lai là một chơn thể, các thầy có nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn nói:
– Khi Như Lai diệt rồi, cái được gọi là chơn thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các thầy có nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
– Đây là một chơn thể, do tuệ mà thấy chân thật như vậy thì những gì nghi
hoặc kia bị tiêu diệt chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, bị tiêu diệt!
Đức Thế Tôn nói:
– Như Lai là một chơn thể; do tuệ mà thấy chân thật như vậy thì những gì nghi hoặc kia bị tiêu diệt chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, bị tiêu diệt!
Đức Thế Tôn nói:
– Khi Như Lai diệt rồi, cái được gọi là chơn thể ấy cũng là pháp hủy diệt; do tuệ mà thấy chân thật như vậy thì những gì nghi hoặc kia bị tiêu diệt chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, bị tiêu diệt!
Đức Thế Tôn nói:
– Đây là một chơn thể, các thầy đã không còn nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn nói:
– Như Lai là một chơn thể, các thầy đã không còn nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn nói:
– Khi Như Lai diệt rồi, cái được gọi là chơn thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các thầy đã không còn nghi hoặc chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy thấy như vậy, biết như vậy, tức là nói: “Tri kiến này của tôi thanh tịnh như vậy nên chấp trước nó, tiếc nuối nó, thủ trì nó, không muốn xả bỏ nó”; và các thầy biết Ta thường nói thí dụ chiếc bè; khi biết rồi, những gì bị bít kín có thể được mở cho chảy xuôi chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, tức là nói: “Tri kiến này của tôi thanh tịnh như vậy, nhưng không chấp trước nó, không tiếc nuối nó, không thủ trì nó, muốn xả bỏ nó”; và các thầy biết Ta thường nói thí dụ chiếc bè; khi biết rồi, những gì bị bít kín có thể được mở cho chảy xuôi chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu có kẻ dị học đến hỏi các thầy: “Này Hiền giả, các ngài nếu có tri kiến thanh tịnh như vậy, nhưng nó có nghĩa lợi gì, có công đức gì?” Các thầy sẽ trả lời như thế nào?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, nếu có kẻ dị học đến hỏi chúng con: “Này Hiền giả, các ngài nếu có tri kiến thanh tịnh như vậy, nhưng nó có nghĩa lợi gì, có công đức gì?” thì chúng con sẽ đáp như sau: “Này chư Hiền, nghĩa lợi đó là yểm ly, nghĩa lợi đó là vô dục, nghĩa lợi đó là thấy biết như thật.” Bạch Thế Tôn, nếu có kẻ dị học đến hỏi thì chúng con sẽ đáp như vậy.
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu có kẻ dị học đến hỏi các thầy, các thầy nên đáp như vậy. Vì sao? Đây được nói là sự quán sát: Một là thực phẩm phần đoạn, thô hoặc tế; hai là xúc; ba là ý niệm; bốn là thức. Bốn loại thực phẩm này lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Bốn loại thực phẩm ấy lấy ái làm nhân, do ái mà tập khởi, từ ái mà sanh, duyên ái mà có. Ái lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên gì mà có? Ái lấy thọ làm nhân, do thọ mà tập khởi, từ thọ mà sanh, duyên thọ mà có. Thọ lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Thọ lấy xúc làm nhân, do xúc mà tập khởi, từ xúc mà sanh, duyên xúc mà có. Xúc lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Xúc lấy sáu xứ làm nhân, do sáu xứ mà tập khởi, từ sáu xứ mà sanh, duyên sáu xứ mà có. Sáu xứ lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Sáu xứ lấy danh sắc làm nhân, do danh sắc mà tập khởi, từ danh sắc mà sanh, duyên danh sắc mà có. Danh sắc lấy gì làm nhân, lấy cái gì tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Danh sắc lấy thức làm nhân, do thức mà tập khởi, từ thức mà sanh, duyên thức mà có. Thức lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Thức lấy hành làm nhân, do hành mà tập khởi, từ hành mà sanh, duyên hành mà có. Hành lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Hành lấy vô minh làm nhân, do vô minh mà tập khởi, từ vô minh mà sanh, duyên vô minh mà có. Đó là duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già, chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não. Như vậy, toàn bộ khối lớn đau khổ phát sanh.
Duyên sanh mà có già, chết; ở đây nói là duyên sanh mà có già, chết, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên sanh mà có già, chết, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên sanh mà có già, chết.
– Duyên hữu mà có sanh; ở đây nói là duyên hữu mà có sanh, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên hữu mà có sanh, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên hữu mà có sanh.
– Duyên thủ mà có hữu; ở đây nói là duyên thủ mà có hữu, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên thủ mà có hữu, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thủ mà có hữu.
– Duyên ái mà có thủ; ở đây nói là duyên ái mà có thủ, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên ái mà có thủ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên ái mà có thủ.
– Duyên thọ mà có ái; ở đây nói duyên thọ mà có ái, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên thọ mà có ái, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thọ mà có ái.
– Duyên xúc mà có thọ; ở đây nói duyên xúc mà có thọ, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên xúc mà có thọ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên xúc mà có thọ.
– Duyên sáu xứ mà có xúc; ở đây nói là duyên sáu xứ mà có xúc, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên sáu xứ mà có xúc, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên sáu xứ mà có xúc.
– Duyên danh sắc mà có sáu xứ; ở đây nói là duyên danh sắc mà có sáu xứ,
ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên danh sắc mà có sáu xứ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên danh sắc mà có sáu xứ.
– Duyên thức mà có danh sắc; ở đây nói là duyên thức mà có danh sắc, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên thức mà có danh sắc, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thức mà có danh sắc.
– Duyên hành mà có thức; ở đây nói là duyên hành mà có thức, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Duyên hành mà có thức, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên hành mà có thức.
– Duyên vô minh mà có hành; ở đây nói là duyên vô minh mà có hành, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, duyên vô minh mà có hành, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên vô minh mà có hành.
Đây là duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già, chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ đau này phát sanh.
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, các thầy nói như vậy. Vì sao? Vì Ta cũng nói như vậy. Duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già, chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não. Như vậy, toàn bộ khối lớn đau khổ này phát sanh.
Sanh diệt thì già, chết diệt; ở đây nói là sanh diệt thì già, chết diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, sanh diệt thì già, chết diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì sanh diệt thì già, chết diệt.
– Hữu diệt thì sanh diệt; ở đây nói là hữu diệt thì sanh diệt, ý các thầy
nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, hữu diệt thì sanh diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì hữu diệt thì sanh diệt.
– Thủ diệt thì hữu diệt; ở đây nói là thủ diệt thì hữu diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thủ diệt thì hữu diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thủ diệt thì hữu diệt.
– Ái diệt thì thủ diệt; ở đây nói là ái diệt thì thủ diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, ái diệt thì thủ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì ái diệt thì thủ diệt.
– Thọ diệt thì ái diệt; ở đây nói là thọ diệt thì ái diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thọ diệt thì ái diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thọ diệt thì ái diệt.
– Xúc diệt thì thọ diệt; ở đây nói là xúc diệt thì thọ diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, xúc diệt thì thọ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì xúc diệt thì thọ diệt.
– Sáu xứ diệt thì xúc diệt; ở đây nói là sáu xứ diệt thì xúc diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, sáu xứ diệt thì xúc diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì sáu xứ diệt thì xúc diệt.
– Danh sắc diệt thì sáu xứ diệt; ở đây nói là danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì danh sắc diệt thì sáu xứ diệt.
– Thức diệt thì danh sắc diệt; ở đây nói là thức diệt thì danh sắc diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, thức diệt thì danh sắc diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thức diệt thì danh sắc diệt.
– Hành diệt thì thức diệt; ở đây nói là hành diệt thì thức diệt, ý các thầy
nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, hành diệt thì thức diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì hành diệt thì thức diệt.
– Vô minh diệt thì hành diệt; ở đây nói là vô minh diệt thì hành diệt, ý các thầy nghĩ sao?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, vô minh diệt thì hành diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì vô minh diệt thì hành diệt.
Đây là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già, chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não diệt. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ này bị diệt.
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Này Tỳ-kheo, các thầy nói như vậy. Vì sao? Vì Ta cũng nói như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già, chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não diệt. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ đau này bị diệt.
Đức Thế Tôn lại khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy đối với quá khứ có nghĩ rằng: “Ta có trong thời quá khứ hay ta không có trong thời quá khứ? Ta có trong thời quá khứ như thế nào? Do đâu mà có trong thời quá khứ” chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy đối với vị lai có nghĩ rằng: “Ta sẽ có trong đời vị lai hay ta sẽ không có trong đời vị lai? Ta có trong đời vị lai như thế nào? Do đâu mà có trong đời vị lai” chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy đối với bên trong mà có nghi hoặc rằng: “Đây là thế nào? Đây là cái gì? Chúng sanh này từ đâu đến? Sẽ đi về đâu? Do nhân gì mà đã có? Do nhân gì mà sẽ có chăng? "
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có giết cha mẹ, hại đệ tử Phật, A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, có ác ý đối với Phật, làm đổ máu Như Lai chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có phạm giới, xả giới, bỏ đạo chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có bỏ nội đạo mà tìm đến ngoại đạo để tìm ruộng phước chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có đối với Sa-môn, Phạm chí mà nói như vầy: “Chư Tôn, các ngài thấy điều đáng thấy, biết điều đáng biết” chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có cho lễ cát tường là thanh tịnh chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có thấy những kiến chấp liên hệ đến lễ cát tường của các Sa-môn, Phạm chí xen lẫn khổ, xen lẫn độc hại, xen lẫn phiền nhiệt, xen lẫn ảo não là chân thật chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy khi thân thể bệnh hoạn, rất là đau đớn, gần như tuyệt mạng, bèn bỏ nội đạo, tìm đến ngoại đạo, tìm đến những Sa-môn, Phạm chí kia, những người trì loại chú một câu, chú hai câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm câu, nói rằng: “Xin trì chú này để tôi thoát khổ”; đó là tìm đến sự khổ, tập khởi sự khổ mà mong diệt tận khổ được chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không!
Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có chấp thủ sự tái sanh chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Nếu các thầy biết như vậy, thấy như vậy, các thầy có nói như vầy: “Chúng ta cung kính Sa-môn, kính trọng Sa-môn, Sa-môn Cù- đàm là bậc Tôn sư của chúng ta” chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Các thầy bằng sự tự biết, tự thấy, tự giác đối với sự chứng đắc Tối chánh giác, các thầy có tùy theo những điều được hỏi mà trả lời chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, có! Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Ta chân chánh điều ngự các thầy đối với pháp hoàn toàn rốt ráo, không phiền, không nhiệt, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh trí, được thấy bởi chánh trí, được giác ngộ bởi chánh trí. Vì lý do đó mà Ta đã nói rằng: “Ta sẽ nói cho các thầy nghe về pháp hoàn toàn rốt ráo, không phiền, không nhiệt, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh trí, được thấy bởi chánh trí, được giác ngộ bởi chánh trí.”
Lại nữa, có ba sự kiện hiệp hội để thác vào thai mẹ. Đó là cha mẹ tụ tập tại một chỗ, người mẹ trong thời kỳ có thể thọ thai và hương ấm đã đến. Do ba sự kiện này hiệp hội mà thác vào thai mẹ. Thai mẹ kéo dài chín tháng hay mười tháng rồi sanh. Sanh rồi được nuôi dưỡng bằng máu; máu đó ở trong Thánh pháp gọi là sữa mẹ. Rồi thì các căn lớn dần cho đến thành tựu, ăn cơm, ăn cháo, dầu tô thoa mình. Rồi mắt nó thấy sắc, ưa thích sắc đẹp, ghét bỏ sắc xấu; nó không lập niệm tại thân với một tâm nhỏ mọn; nó không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; những pháp ác, bất thiện được sanh ra, không bị diệt tận vô dư, không bị hủy hoại không dư tàn. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Ý biết pháp, ưa thích cái đẹp, ghét bỏ cái xấu; nó không lập niệm tại thân với một tâm nhỏ mọn; nó không biết như thật tâm giải thoát, tuệ giải thoát; những pháp ác, bất thiện được sanh ra không bị diệt tận vô dư, không bị hủy hoại không dư tàn. Nó tùy những gì ưa ghét mà lãnh nạp cảm thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không lạc không khổ. Nó hoan lạc với cảm thọ ấy, tìm cầu, chấp trước, chấp thủ cảm thọ ấy. Nó sau khi hoan lạc với cảm thọ ấy, tìm cầu, chấp trước, chấp thủ cảm thọ ấy rồi, nếu đó là cảm thọ lạc, vì do chấp thủ và duyên thủ mà có hữu; duyên hữu mà có sanh; duyên sanh mà có già, chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ đau này phát sanh.
Này Tỳ-kheo, như vậy há không phải là đầy đủ để sự tương tục bị trói buộc bởi ái như Tỳ-kheo Trà-đế Kê-hòa-đa-tử chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, như vậy là đầy đủ để sự tương tục bị trói buộc bởi ái như Tỳ-kheo Trà-đế Kê-hòa-đa-tử.
– Nếu khi Như Lai xuất thế, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu; mắt vị ấy thấy sắc, nhưng đối với sắc đẹp không hoan lạc, chấp trước; đối với sắc xấu không ghét bỏ; vị ấy lập niệm tại thân với một tâm vô lượng; biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát; các pháp ác, bất thiện đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy. Ý biết pháp, đối với cái đẹp không hoan lạc, chấp trước; đối với cái xấu không ghét bỏ; vị ấy lập niệm tại thân với một tâm vô lượng; biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát; các pháp bất thiện đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Vị ấy như vậy, diệt những gì yêu ghét được lãnh nạp bởi thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không lạc không khổ. Vị ấy không hoan lạc theo cảm thọ ấy, không tìm cầu, không chấp trước, không chấp thủ cảm thọ ấy. Do không hoan lạc theo cảm thọ ấy, không tìm cầu, không chấp trước, không chấp thủ theo cảm thọ ấy, nếu có cảm thọ lạc, nó liền diệt; lạc diệt thì thủ diệt; thủ diệt thì hữu diệt; hữu diệt thì sanh diệt; sanh diệt thì già, chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não cũng diệt. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ đau này đều diệt.
Này Tỳ-kheo, như vậy há không phải là đầy đủ về ái tận, giải thoát chăng? Các Tỳ-kheo đáp:
– Bạch Thế Tôn, như vậy là đầy đủ về ái tận, giải thoát.
Khi nói pháp này, ba ngàn đại thiên thế giới ba lần chấn động, hết động lại động nữa, hết rung lại rung nữa, hết rền lại rền nữa; cho nên kinh này gọi là “Ái tận giải thoát.”
Đức Phật thuyết giảng như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.