Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

196. KINH CHÂU-NA
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Bạt-kỳ, thôn Xá-di.

Bấy giờ, Sa-di Châu-na kiết hạ ở Ba-hòa. Tại xứ Ba-hòa có một Ni-kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử chia rẽ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: “Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau; ai cũng chỉ mong mình nói hơn, nhưng không có người nào để khiển trách. Có những người bạch y tại gia đệ tử của Ni-kiền Thân Tử thấy vậy, họ đều chán nản và tránh xa các đệ tử này của Ni-kiền Thân Tử. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác Pháp, Luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện Thệ; đó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, Sa-di Châu-na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y, cất bát đến thôn Xá-di, rồi qua phía Bắc thôn Xá-di, đến ở trong rừng Thi-nhiếp-hòa. Sa-di Châu-na đến chỗ Tôn giả A-nan; sau khi đến, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan rồi ngồi qua một bên.

Tôn giả A-nan hỏi:
– Này Hiền giả Châu-na, từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu? Sa-di Châu-na đáp:

– Thưa Tôn giả A-nan, con từ Ba-hòa đến và an cư mùa mưa ở Ba-hòa. Thưa Tôn giả A-nan, tại Ba-hòa có một Ni-kiền tên là Thân Tử. Nơi đó, Thân Tử mới qua đời không bao lâu thì đệ tử của Ni-kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: “Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau; ai cũng chỉ mong mình nói hơn, nhưng không có người nào để khiển trách. Có những người bạch y tại gia đệ tử của Ni-kiền Thân Tử thấy vậy, họ đều chán nản và tránh xa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác Pháp, Luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện Thệ; đó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.

Tôn giả A-nan nghe xong, nói:

– Hiền giả Châu-na, nhân dịp này, chúng ta có thể đến yết kiến đức Thế Tôn, đem sự việc này trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu-na, bây giờ chúng ta cùng đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này trình bày lên cho đức Thế Tôn; thảng hoặc có thể nhân đó mà chúng ta được nghe pháp khác nữa từ nơi đức Thế Tôn.

Rồi Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na cùng nhau đến chỗ đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát dưới chân Ngài. Xong rồi Tôn giả A-nan đứng qua một bên và Châu-na ngồi xuống một bên. Tôn giả A-nan bạch với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, hôm nay, Sa-di Châu-na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân con rồi ngồi qua một bên. Và con hỏi: “Này Hiền giả Châu-na, từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu?” Sa-di Châu-na liền trả lời con: “Thưa Tôn giả A-nan, con từ Ba-hòa đến và an cư mùa mưa ở Ba-hòa. Thưa Tôn giả A-nan, tại Ba-hòa có một Ni-kiền tên là Thân Tử. Nơi đó, Thân Tử mới qua đời không bao lâu thì các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử chia rẽ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: ‘Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.’ Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau; ai cũng chỉ mong mình nói hơn, nhưng không có người nào để khiển trách. Có những người bạch y tại gia đệ tử của Ni-kiền Thân Tử thấy vậy, họ đều chán nản và tránh xa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác Pháp, Luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện Thệ; đó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.”

Bạch đức Thế Tôn, con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng đứng. Mong sao sau khi Thế Tôn nhập diệt, đừng có một vị Tỳ-kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời và loài người cũng phải chịu đau khổ và tai họa. Bạch đức Thế Tôn, khi con thấy một vị Tỳ- kheo ngồi trước Thế Tôn, chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện Thệ, bạch Thế Tôn, con thấy như vậy rồi liền nghĩ: “Nếu sau này khi đức Thế Tôn nhập diệt mà vị Tỳ-kheo ấy ở trong chúng gây ra sự đấu tranh thì sự đấu tranh ấy không giúp gì được cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai họa.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi:

– Này A-nan, thầy thấy những điều nào khiến chúng Tăng có sự đấu tranh; sự đấu tranh ấy không giúp ích gì được cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai họa?

Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch đức Thế Tôn, đó là do tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán mà phát sanh sự đấu tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu tranh ấy không giúp gì được cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là an ổn, khoái lạc, cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai họa.

Đức Thế Tôn dạy:

– Này A-nan, nếu đấu tranh do bởi tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A-nan, nếu có sự đấu tranh khởi lên trong chúng do đạo và đạo tích, thì này A-nan, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là sự an ổn, khoái lạc. Này A-nan, khi thầy thấy ở trong đấy có hai vị Tỳ-kheo mà mỗi người có mỗi ý khác nhau, gây ra cuộc đấu tranh và nói rằng: “Điều này là pháp, điều này không phải là pháp; điều này là luật, điều này không phải là luật; điều này là phạm, điều này không phải là phạm; điều này là nhẹ, điều này là nặng; có thể sám hối, không thể sám hối; có thể thủ hộ, không thể thủ hộ; hữu dư, vô dư; thối, bất thối”; thì này A-nan, ý thầy nghĩ sao, đối với pháp bốn chánh đoạn tụ của ta được tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, gồm bốn niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi Thánh đạo? Này A-nan, Ni-kiền Thân Tử thật chẳng phải là bậc Nhất Thiết Trí mà tự xưng là Nhất Thiết Trí. Này A-nan, nếu Ni-kiền Thân Tử biết tất cả, thấy tất cả thì vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ của đấu tranh. Điều đáng được nghe nhưng Ni-kiền Thân Tử lại không giảng.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Bạch đức Thế Tôn, nay thật là đúng lúc. Bạch đức Thiện Thệ, nay thật hợp thời. Nếu đức Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự đấu tranh cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo thọ trì.

Đức Thế Tôn bảo:

– Này A-nan, hãy nghe kỹ, hãy suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì thầy mà phân biệt đầy đủ!

Tôn giả A-nan đáp:
– Kính vâng, bạch Thế Tôn! Đức Phật dạy:

– Này A-nan, ở đây, có người bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt. Này A-nan, người ấy bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt, cho nên người đó không cung kính Tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật. Người ấy đã không cung kính Tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật rồi, ở trong chúng, người ấy gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích, không phải là sự an ổn, khoái lạc, cho đến loài trời, loài người phải chịu đau khổ và tai họa. Này A-nan, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không chấm dứt hết được; vậy, vì để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A-nan, ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, cháy áo thì phải cấp tốc tìm phương tiện để chữa cháy đầu, chữa cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không chấm dứt hết được; vậy, vì để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A-nan, sự đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong và bên ngoài chấm dứt được, thầy phải hết sức thủ hộ cái tâm đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chặn sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy như vậy. Cũng giống như vậy, với các kiết sử phú tàng, bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý, ác dục, tà kiến và ác tánh, không biết phục thiện.

Này A-nan, nếu có một người nào có ái dục, tà kiến, ác tánh, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật; người ấy đã không tôn kính Tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật rồi, ở trong chúng, người ấy gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; không phải là thiện lợi, không phải là hữu ích, không phải là an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai họa. Này A-nan, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài mà không chấm dứt được; vậy, vì để ngăn chặn sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A-nan, ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, cháy áo thì phải cấp tốc tìm phương tiện để chữa cháy đầu, chữa cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không chấm dứt được; vậy, vì để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A-nan, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong và ở bên ngoài mà chấm dứt được, thầy phải hết sức thủ độ cái tâm kia hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chặn sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy như vậy.

Lại nữa, này A-nan, có bảy phương pháp diệt trừ đấu tranh. Một, ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật; hai, ưng dữ ức chỉ tránh luật; ba, ưng dữ bất si chỉ tránh luật; bốn, ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật; năm, ưng dữ quân chỉ tránh luật; sáu, ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật; bảy, ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật.

Này A-nan, thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện. Này A-nan, hoặc một người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người, một người đối với nhiều người, một người đối với Tăng chúng mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với Tăng chúng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với Tăng chúng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với Tăng chúng mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với một người, Tăng chúng đối với hai người, Tăng chúng đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ bằng Pháp, Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A-nan, như vậy gọi là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện.

Này A-nan, thế nào là ưng dữ ức chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự nhớ lại. Này A-nan, nếu có người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm; các Tỳ-kheo thấy vậy, liền nói với vị ấy rằng: “Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Thầy hãy đến trong chúng mà xin luật ức niệm; Tăng chúng sẽ ban cho Hiền giả luật ức niệm.” Này A-nan, nếu tại một nơi nào đó có Tăng chúng đang hòa hợp mà nhóm họp, vị Tỳ-kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, chắp tay quỳ xuống mà bạch với các Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn: “Bạch chư Tôn, mong các ngài nghe cho! Con đã từng phạm giới mà không nhớ. Nay con từ nơi Tăng chúng cầu xin luật ức niệm. Mong Tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm!” Này A-nan, Tăng chúng hòa hợp và nhóm họp lại để ban cho vị Tỳ-kheo này luật ức niệm bằng pháp và luật như Tôn sư đã chỉ dạy, với sự hiện diện khiến cho được hoan hỷ. Này A-nan, như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự nhớ lại.

Này A-nan, thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng. Này A-nan, nếu có một người do phát cuồng mà tâm điên đảo; người ấy do phát cuồng mà tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của Sa-môn, không tùy thuận theo pháp hạnh và nói vi phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các Tỳ-kheo và được bảo rằng: “Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo; do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của Sa-môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Này Hiền giả, nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, Hiền giả có thể đến nơi Tăng chúng cầu xin luật bất si; Tăng chúng sẽ ban cho Hiền giả luật bất si.” Này A-nan, nếu tại một nơi nào đó có Tăng chúng đang hòa hợp mà nhóm họp, vị Tỳ-kheo ấy nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, chắp tay quỳ xuống mà bạch với các Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn: “Bạch chư Tôn, xin nghe cho! Con đã từng phát cuồng và tâm điên đảo; do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của Sa-môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi Tăng chúng cầu xin luật bất si. Mong Tăng chúng hòa hợp ban cho con luật bất si.” Này A-nan, Tăng chúng cùng hòa hợp mà nhóm họp, ban cho vị Tỳ-kheo ấy luật bất si bằng pháp và luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A-nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.

Này A-nan, thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự tự thú nhận. Này A-nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ hay không nhớ. Này A-nan, nếu tại một nơi nào đó có Tăng chúng đang hòa hợp mà nhóm họp, vị Tỳ-kheo kia nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, chắp tay quỳ xuống bạch: “Bạch chư Tôn, xin nghe cho! Con phạm giới đó; con nay hướng về các bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, chí tâm phát lồ, tự mình nói và trình bày rõ, không dám che giấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì, không tái phạm.” Này A-nan, chúng Tỳ-kheo nên hỏi vị ấy rằng: “Này Hiền giả, có tự thấy điều mình phạm không?” Vị Tỳ-kheo ấy đáp: “Con thật sự có thấy điều con phạm.” Đại chúng cũng nên nói với vị ấy rằng: “Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn, đừng tái phạm.” Này A-nan, đó gọi là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự tự thú nhận.

Này A-nan, thế nào gọi là ưng dữ quân chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính đương nhân. Này A-nan, nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị người khác nghi ngờ là ác dục. Người ấy đã phạm giới rồi, nói là mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi; sau khi biết ở một nơi rồi lại nói mình thấy ở một nơi; sau khi thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi; ở trong Tăng chúng mà nói là mình thấy ở một nơi, ở trong Tăng chúng mà nói là mình biết ở một nơi; nói mình biết ở một nơi rồi lại nói mình thấy ở một nơi; nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A-nan, vì vị Tỳ- kheo ấy, Tăng chúng hòa hợp mà nhóm họp để ban cho luật đương nhân và nói rằng: “Thầy không đạo lý, thầy ác, bất thiện. Vì sao? Vì thầy đã phạm giới, lại nói mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi; nói mình biết ở một nơi rồi lại nói mình thấy ở một nơi; nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi; ở trong Tăng chúng mà nói là mình biết ở một nơi, ở trong Tăng chúng mà nói là mình thấy ở một nơi; nói mình biết ở một nơi rồi lại nói mình thấy ở một nơi; nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi.” Này A-nan, như vậy gọi là ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính đương nhân.

Này A-nan, thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diễn tiến. Này A-nan, ở đâu, giữa hai vị Tỳ-kheo vì một số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: “Đây là pháp, đây là phi pháp; đây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm, đây không phải là phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; điều này nên nói, điều này không nên nói; điều này đáng thủ hộ, điều này không đáng thủ hộ; điều này còn dư, điều này không còn dư; điều này có thể sám hối, điều này không thể sám hối.” Này A-nan, vị Tỳ-kheo kia ngay tại chỗ đang cãi vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu ngay tại chỗ đang cãi vã mà chấm dứt đấu tranh thì sự đấu tranh này được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay tại chỗ đang cãi vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu tranh ấy ra bạch với Tăng chúng. Nếu ở trong Tăng chúng mà chấm dứt thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở trong Tăng chúng mà không chấm dứt, thì này A-nan, ở gần đó, trong đó có Tỳ-kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận; các Tỳ-kheo kia cùng đến vị này thưa việc đấu tranh ấy. Nếu ngay trên đường đi mà chấm dứt thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay trên đường đi mà không chấm dứt, lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước Tăng chúng. Nếu ở trước Tăng chúng mà chấm dứt thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở trước Tăng chúng mà không chấm dứt, thì này A-nan, nếu có nhiều trợ bạn, giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì này A-nan, các vị Tỳ-kheo này phải chấm dứt sự đấu tranh ấy bằng pháp và luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A-nan, như vậy gọi là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diễn tiến.

Này A-nan, thế nào gọi là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách. Này A-nan, nếu các vị Tỳ-kheo cùng ở chung một chỗ, tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cãi vã nhau, này A-nan, do đó các Tỳ-kheo kia chia ra hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một nhóm, có bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, hay dưới Trưởng lão một bậc, hoặc có người làm Tông chủ hay nhỏ hơn Tông chủ một bậc. Này A-nan, vị Tỳ- kheo này nói với các vị Tỳ-kheo kia rằng: “Này chư Hiền, xin nghe cho! Chúng ta không có đạo lý; chúng ta là người ác, bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo; nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cãi vã nhau. Này chư Hiền, do sự tranh chấp này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu-lan-giá và ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chư Hiền nữa nên hướng đến chư Hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn, sau không tái phạm nữa.”

Này A-nan, nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ-kheo nào ứng theo, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai. Đến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn, chắp tay quỳ mọp và thưa rằng: “Thưa chư Tôn, xin nghe cho! Chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác, bất thiện. Vì sao? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình để, học đạo; nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cãi vã nhau. Này chư Hiền, do sự tranh chấp này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu-lan-giá và ngoại trừ tội tương đương với hàng tại gia. Tôi vì chính mình mà cũng vì chính chư Hiền nữa nên hướng đến chư Hiền chí tâm phát lồ, tự nói và trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn, sau không tái phạm nữa.” Này A-nan, các Tỳ-kheo kia nên nói với vị Tỳ-kheo này như vầy: “Này Hiền giả, thầy tự thấy mình phạm giới chăng?” Vị Tỳ-kheo này nên đáp: “Quả thật tôi tự thấy đã phạm.” Vị Tỳ-kheo kia nên nói: “Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm.” Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A-nan, như vậy gọi là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách.

Này A-nan, nay Ta nói cho thầy sáu pháp ủy lạo, hãy lắng nghe, hãy khéo

suy nghĩ kỹ!
Tôn giả A-nan bạch:
– Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe! Đức Phật dạy:

– Thế nào gọi là sáu? Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng Phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Khẩu nghiệp từ hòa; ý nghiệp từ hòa; có lợi lộc nào đúng theo pháp mà được, cho đến miếng cơm trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia sẻ cho các vị đồng Phạm hạnh; pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được bậc Thánh khen ngợi, đầy đủ, thọ trì cẩn thận, với giới phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh; pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Nếu có kiến giải của bậc Thánh, có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh; pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Này A-nan, Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo; vì vậy mà Ta giảng giải. Này A-nan, nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của sự đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong Tăng chúng khởi lên đấu tranh thì chấm dứt bằng luật, chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A-nan, như vậy sau khi Ta diệt độ, các thầy sống cộng đồng, hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, an lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.