Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

194. KINH BẠT-ĐÀ-HÒA-LỢI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc, cùng với đại chúng Tỳ-kheo an cư mùa mưa.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:

– Ta chỉ ăn trong một lần ngồi. Do chỉ ăn trong một lần ngồi, Ta vô vi, vô cầu, không có các tật bịnh, thân thể nhẹ nhàng, thoải mái, khí lực khang cường, an ổn, khoái lạc. Các thầy cũng nên ăn chỉ trong một lần ngồi. Do ăn chỉ trong một lần ngồi, các thầy sẽ vô vi, vô cầu, không có các tật bịnh, thân thể nhẹ nhàng, thoải mái, khí lực khang cường, an ổn, khoái lạc.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi cũng ở trong đại chúng. Rồi Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, con không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong một lần ngồi thì chẳng khác nào làm một công việc chưa xong, cảm thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi.

Đức Thế Tôn dạy:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nhận lời mời, thầy cũng đi theo Ta. Và nếu Ta chấp thuận cho thầy mang đi đồ ăn được mời ấy, nhưng ăn chỉ trong một lần ngồi, như vậy cũng có thể sống được an lành.

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi lại bạch:

– Bạch Thế Tôn, dù vậy, con cũng không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong một lần ngồi, chẳng khác nào làm một việc chưa xong, cảm thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi.

Đức Thế Tôn ba lần nói với các Tỳ-kheo:

– Ta ăn chỉ trong một lần ngồi. Do ăn chỉ trong một lần ngồi, Ta vô vi, vô cầu, không có các tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, thoải mái, khí lực khang cường, an ổn, khoái lạc. Các thầy cũng nên học ăn chỉ trong một lần ngồi. Do ăn chỉ trong một lần ngồi, các thầy sẽ vô vi, vô cầu, không có các tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, thoải mái, khí lực khang cường, an ổn, khoái lạc.


Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi cũng ba lần từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà bạch:

– Bạch Thế Tôn, con không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong một lần ngồi thì không khác nào làm một công việc chưa xong, cảm thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con không thể kham nổi việc ăn chỉ trong một lần ngồi.

Đức Thế Tôn cũng ba lần dạy:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nhận lời mời, thầy cũng đi theo. Và nếu Ta chấp thuận cho thầy mang đi đồ ăn được mời ấy, nhưng ăn chỉ trong một lần ngồi, như vậy cũng có thể sống được an lành.

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi cũng ba lần bạch:

– Bạch Thế Tôn, mặc dù như vậy, nhưng con cũng không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong một lần ngồi thì chẳng khác nào làm một công việc chưa xong, cảm thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi.

Bấy giờ, đức Thế Tôn thiết lập giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo. Chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Chỉ trừ Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi tuyên bố là không thể kham nổi, từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi. Vì sao vậy? Vì Tôn giả không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Rồi Tôn giả Bạt-đà-hòa- lợi suốt trong một mùa mưa ấy lánh mình không gặp đức Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì Tôn giả không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Vào một lúc, các Tỳ-kheo làm y cho đức Phật, để sau ba tháng an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ, y được khâu vá xong, đức Thế Tôn sẽ thu xếp y, ôm bát và du hành trong nhân gian. Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi được nghe: “Các Tỳ-kheo đang làm y cho đức Phật, để sau ba tháng an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ, y được khâu vá xong, đức Thế Tôn sẽ thu xếp y, ôm bát và du hành trong nhân gian.” Sau khi nghe như vậy, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bèn đi đến chỗ các Tỳ- kheo. Các Tỳ-kheo từ xa trông thấy Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đang đi đến, bèn nói như vầy:

– Hiền giả Bạt-đà-hòa-lợi nên biết, ở đây chúng tôi đang làm y cho Thế Tôn, để sau ba tháng an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ, y được khâu vá xong, đức Thế Tôn sẽ thu xếp y, ôm bát và du hành trong nhân gian. Này Bạt-đà- hòa-lợi, hãy khéo tự gìn giữ trong trường hợp này, đừng để về sau xảy ra nhiều sự phiền nhọc.

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi nghe những lời ấy xong, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, con thật có lỗi! Con thật có lỗi! Con như ngu, như si, như khờ dại, như bất thiện. Vì sao vậy? Vì Thế Tôn thiết lập giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Chỉ riêng con tuyên bố là không kham nổi và từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết rằng một số đông các Tỳ- kheo và Tỳ-kheo-ni đang an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ, những vị ấy biết Ta, thấy Ta và biết: “Có Tỳ-kheo tên Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Thế Tôn, không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.” Này Bạt-đà- hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết có sự kiện như vậy chăng?

Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết rằng một số đông ưu-bà- tắc và ưu-bà-di tại nước Xá-vệ, những người này biết Ta, thấy Ta và biết: “Có Tỳ-kheo tên là Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Thế Tôn, không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.” Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết có sự kiện như vậy chăng?

Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết rằng một số đông các Sa- môn, Phạm chí dị học đang an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ, những vị này biết Ta, thấy Ta và biết: “Có Tỳ-kheo tên là Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Sa-môn Cù- đàm, một bậc danh đức, nhưng không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.” Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không biết có sự kiện như vậy chăng?

Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu có Tỳ-kheo chứng câu giải thoát mà Ta nói với vị ấy rằng: “Ông hãy xuống vũng bùn.” Này Bạt-đà-hòa-lợi, ý thầy nghĩ sao? Ta dạy Tỳ-kheo ấy như vậy, Tỳ-kheo há nên đứng im hay tránh đi chỗ khác chăng?

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi thưa: – Bạch Thế Tôn, không! Đức Thế Tôn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, giả sử không phải là Tỳ-kheo câu giải thoát, nhưng là Tỳ-kheo tuệ giải thoát; hoặc giả sử không phải là Tỳ-kheo tuệ giải thoát, nhưng là thân chứng; hoặc giả sử không phải là thân chứng, nhưng là kiến đáo; hoặc giả sử không phải là kiến đáo, nhưng là tín giải thoát; hoặc giả sử không phải là tín giải thoát nhưng là tùy pháp hành; hoặc giả sử không phải là tùy pháp hành, nhưng là tùy tín hành mà Ta nói với vị Tỳ-kheo ấy rằng: “Ông hãy xuống vũng bùn.” Này Bạt-đà-hòa-lợi, thầy nghĩ sao? Ta dạy Tỳ-kheo ấy như vậy, Tỳ-kheo ấy há có nên đứng im hay tránh đi nơi khác chăng?

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đáp: – Bạch Thế Tôn, không!

Đức Thế Tôn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, thầy nghĩ sao? Lúc bấy giờ thầy đã chứng đắc Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng, Tuệ giải thoát hay Câu giải thoát chăng?

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đáp:
– Bạch Thế Tôn, không phải vậy.
Đức Thế Tôn nói:
– Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ thầy không phải như căn nhà trống chăng?

Lúc ấy, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bị Thế Tôn quở trách trước mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không còn lời để biện bạch, suy nghĩ mông lung. Đức Thế Tôn sau khi quở trách Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi trước mặt, ngay vào mặt rồi, lại muốn làm cho được hoan hỷ, bèn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, thầy lúc bấy giờ đối với Ta mà không có sự tịch tịnh của sự tín pháp, không có sự tịch tịnh của ái pháp, không có sự tịch tịnh của tĩnh pháp. Vì sao vậy? Trong lúc Ta thiết lập giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn thì chỉ riêng thầy tuyên bố là không kham nổi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì thầy không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bạch:

– Quả thật như vậy! Vì sao vậy? Vì trong lúc Thế Tôn thiết lập học giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn, chỉ riêng con tuyên bố là không kham nổi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì con không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn nhận sự hối lỗi của con! Con đã thấy lỗi lầm, sẽ tự mình ăn năn hối cải, từ nay trở đi sẽ giữ gìn không tái phạm nữa.

Đức Thế Tôn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, như vậy, thầy thật sự như mê mờ, như khờ dại, như bất thiện. Vì sao vậy? Vì trong lúc Ta thiết lập học giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn, chỉ thầy tuyên bố là không kham nổi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì thầy không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu thầy có lỗi lầm, đã thấy và tự hối, từ nay về sau giữ gìn, không thể để tái phạm, thì này Bạt-đà-hòa-lợi, như vậy, ở trong Thánh Pháp, Luật có lợi ích, chớ không tổn hại. Nếu thầy có lầm lỗi, đã thấy và tự hối, từ nay về sau giữ gìn, không để tái phạm nữa, thì này Bạt-đà-hòa-lợi, thầy nghĩ sao? Nếu có Tỳ-kheo không học theo giới Cụ túc, vị ấy sống trong rừng vắng, dưới gốc cây, hoặc ở trên sườn núi cao, vắng bặt, không tiếng động, xa lánh sự dữ, không có bóng người, tùy thuận và tĩnh tọa; vị ấy sau khi sống tại một nơi xa vắng, tu hành tinh cần, chứng đắc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú. Nhưng vị ấy sống tại nơi xa vắng, tu hành tinh cần, an ổn, khoái lạc như vậy mà xuyên tạc, chê bai học giới của Thế Tôn, xuyên tạc, chê bai chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí, và cũng xuyên tạc, chê bai học giới của chính mình. Vị ấy sau khi xuyên tạc học giới của Thế Tôn, xuyên tạc chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí, và cũng xuyên tạc học giới của chính mình rồi, liền không sanh tâm hoan duyệt, do không sanh tâm hoan duyệt nên không sanh hỷ, do không sanh hỷ nên thân không khinh an, do thân không khinh an nên không cảm thọ lạc, do không cảm thọ lạc nên tâm bất định. Này Bạt-đà-hòa-lợi, Hiền thánh đệ tử sau khi tâm bất định rồi, không thể thấy như thật, biết như thật.

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, thầy nghĩ sao? Nếu có Tỳ-kheo học giới Cụ túc, sống trong rừng vắng, nơi gốc cây, ở trên sườn cao, vắng bặt, không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa; vị ấy sống tại nơi xa vắng, tu hành tinh cần, chứng đắc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú. Vị ấy sau khi sống tại nơi xa vắng, tu hành tinh cần, an ổn, khoái lạc rồi, không xuyên tạc học giới của Thế Tôn, không xuyên tạc chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí, cũng không xuyên tạc học giới của chính mình. Vị ấy sau khi không xuyên tạc học giới của Thế Tôn, không xuyên tạc chư thiên và các vị Phạm hạnh có trí, cũng không xuyên tạc học giới của chính mình rồi, bèn sanh hoan duyệt, do sanh hoan duyệt nên hỷ, do sanh hỷ nên thân khinh an, do thân khinh an nên cảm thọ lạc, do cảm thọ lạc nên tâm định. Này Bạt-đà-hòa-lợi, Hiền thánh đệ tử tâm định rồi, bèn thấy như thật, biết như thật. Sau khi thấy như thật, biết như thật, vị ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc tăng thượng tâm thứ nhất, ngay trong đời hiện tại, được sống an lạc, dễ được chứ không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn, khoái lạc và thăng tiến đến Niết- bàn. Rồi vị ấy giác quán tịch tịnh, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy bấy giờ chứng đắc tăng thượng tâm thứ hai, ngay trong đời hiện tại được sống an lạc, dễ được chứ không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn, khoái lạc mà thăng tiến đến Niết-bàn. Rồi vị ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh nói là Thánh xả niệm lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc tăng thượng tâm thứ ba, ngay trong đời hiện tại được sống an lạc, dễ được chứ không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn, khoái lạc mà thăng tiến đến Niết-bàn. Rồi vị ấy lạc diệt, khổ diệt, ưu và hỷ vốn có cũng đã diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc tăng thượng tâm thứ tư, ngay trong đời hiện tại được sống an lạc, dễ được chứ không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn, khoái lạc mà thăng tiến đến Niết-bàn.

Vị ấy với sự chứng đắc định tâm thanh tịnh như vậy, không nhuế, không phiền, nhu nhuyến, an trú vững vàng, đạt đến bất động tâm, học và chứng đắc túc mạng trí thông. Vị ấy với hành vi, với tướng mạo, nhớ lại về trước vô lượng trăm ngàn đời sống đã trải qua, một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, hoại kiếp, vô lượng thành kiếp hoại kiếp; chúng sanh ấy có tên như vậy, mà vị ấy xưa kia đã từng trải, biết rằng: “Ta đã từng sanh làm người ấy, với họ như vậy, tên như vậy, tự như vậy, sanh như vậy, ăn uống như vậy, mạng chung như vậy, chết ở đây sanh chỗ kia, chết ở chỗ kia sanh ở đây; ta sanh tại chỗ này với họ như vậy, tên như vậy, tự như vậy, sanh như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ như vậy, sống lâu như vậy, tồn tại như vậy, mạng chung như vậy.” Này Bạt- đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ, chứng đắc minh đạt trí thứ nhất này, do trước kia không phóng dật, ưa sống nơi xa vắng, tu hành tinh cần, cho đến vô trí diệt mà trí tuệ phát sanh, bóng tối biến mất mà ánh sáng hiện thành, vô minh diệt mà minh phát sanh, tức là chứng ngộ minh đạt Ức túc mạng trí.

Vị ấy với sự chứng đắc định tâm thanh tịnh như vậy, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trú vững vàng, đạt đến bất động tâm, học và chứng sanh tử trí thông. Vị ấy với thiên nhãn thanh tịnh, vượt hẳn người thường, thấy chúng sanh này, lúc tử lúc sanh, sắc đẹp sắc xấu, diệu hay bất diệu, qua lại thiện xứ và bất thiện xứ, đều tùy theo tác nghiệp của chúng sanh này và thấy đúng như vậy. Nếu chúng sanh này thành tựu thân ác hành, khẩu và ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu tà kiến; chúng sanh ấy do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, tất sanh đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh này thành tựu thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành, không phỉ báng Thánh nhân, chánh kiến, thành tựu chánh định; chúng sanh ấy do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, tất đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc minh đạt trí thứ hai, do trước kia không phóng dật, ưa sống nơi xa vắng, tu hành tinh cần, vô trí diệt và trí sanh, bóng tối biến mất và ánh sáng hiện thành, vô minh diệt và minh sanh, tức chứng ngộ minh đạt Sanh tử trí.

Vị ấy với sự chứng đắc định tâm thanh tịnh như vậy, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trú vững vàng, đạt được bất động tâm, học và chứng ngộ Lậu tận trí thông. Vị ấy biết như thật rằng đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, biết như thật đây là khổ diệt đạo; biết như thật rằng đây là lậu, đây là lậu tập, đây là lậu diệt, biết như thật đây là lậu diệt đạo. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và vô minh lậu; đã giải thoát liền biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc minh đạt trí thứ ba, do trước không phóng dật, ưa sống nơi xa vắng, tu hành tinh cần, vô trí diệt và trí sanh, bóng tối biến mất và ánh sáng hiện thành, vô minh diệt và minh sanh, tức chứng đắc minh đạt Lậu tận trí.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, khi các Tỳ-kheo cùng phạm giới, nhưng có trường hợp khổ trị, có trường hợp không khổ trị?

Đức Thế Tôn dạy:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, hoặc có Tỳ-kheo thường phạm giới; do bởi thường hay phạm giới cho nên bị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ, bèn nói quanh co này kia, lãng sang vấn đề khác, sân hận, thù nghịch, phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu chúng Tăng, khinh mạn chúng Tăng và nói như vầy: “Tôi phải làm gì để chúng Tăng hoan hỷ và hài lòng?” Và có ý nghĩ như vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng: “Nhưng Hiền giả này thường hay phạm giới; và do bởi thường hay phạm giới nên bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị này sau khi bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ, bèn nói quanh co này kia, lãng sang vấn đề khác, sân hận, thù ghét, phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu chúng Tăng, khinh mạn chúng Tăng và nói như vầy: ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng hoan hỷ và hài lòng?’” Sau khi thấy vậy, các Tỳ-kheo bèn nói rằng: “Này các Hiền giả, hãy quán sát khiến để kéo dài một thời gian.”

Hoặc có Tỳ-kheo thường hay phạm giới; do thường hay phạm giới cho nên bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ, không nói quanh co này kia, lãng sang vấn đề khác, những sự việc ngoài vấn đề, không sân hận, thù ghét, phẫn nộ, bất mãn, không xúc nhiễu chúng Tăng, không khinh mạn chúng Tăng và không nói như vầy: “Tôi phải làm gì để Tăng chúng hoan hỷ và hài lòng?” Và không có ý nghĩ như vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng: “Nhưng Hiền giả này thường hay phạm giới; do bởi thường hay phạm giới nên bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách qua những điều được thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các vị đồng Phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ, không nói quanh co này kia, lãng sang vấn đề khác, không sân hận, thù ghét, phẫn nộ, bất mãn, không xúc nhiễu chúng Tăng, không khinh mạn chúng Tăng và không nói như vầy: ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng hoan hỷ và hài lòng?’” Sau khi thấy như vậy, các Tỳ-kheo bèn nói rằng: “Này các Hiền giả, hãy quán sát khiến cho diệt sớm.” Trường hợp phạm các cấm giới nhẹ cũng vậy.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, hoặc giả có Tỳ-kheo có tín, có ái, có tĩnh. “Nay Tỳ- kheo này còn có tín, có ái, có tĩnh, nếu chúng ta khổ trị Hiền giả này thì Hiền giả này sẽ do đây mà dứt mất ái, tín và tĩnh ấy. Chúng ta hãy cùng nhau cẩn thận gìn giữ dùm cho Hiền giả này.” Rồi các Tỳ-kheo bèn cùng nhau gìn giữ hộ. Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng như một người kia chỉ có một con mắt; bà con quyến thuộc vì thương tưởng, yêu mến, mong cầu cho được sự thiện lợi và hữu ích, sự an ổn, khoái lạc nên cùng nhau cẩn thận gìn giữ hộ, không để cho người này bị lạnh, nóng, đói, khát, đau yếu, ưu sầu, vừa đau yếu, vừa ưu sầu, không để cho phải bụi, không để cho khói, không để cho phải bụi và khói. Vì sao vậy? Vì sợ người ấy mất luôn một con mắt nữa, cho nên thân thuộc cẩn thận gìn giữ hộ. Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng vậy, với Tỳ-kheo chỉ còn một ít tín, một ít ái, một ít tĩnh, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng: “Nay Tỳ-kheo này chỉ còn một ít tín, một ít ái, một ít tĩnh; nếu chúng ta khổ trị Hiền giả này thì Hiền giả này sẽ do đây mà dứt mất một ít tín, một ít ái, một ít tĩnh ấy. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ hộ cho Hiền giả này.” Vì vậy, các Tỳ-kheo cùng nhau gìn giữ hộ, cũng như thân thuộc gìn giữ người còn một mắt vậy.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, ngày xưa ít có thiết lập học giới, nhưng được nhiều Tỳ-kheo vâng lĩnh phụng trì? Và do nhân gì, duyên gì, bạch Thế Tôn, ngày nay thiết lập nhiều học giới, nhưng ít có Tỳ-kheo vâng lãnh phụng trì?

Đức Thế Tôn đáp:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi chúng Tỳ-kheo không được thịnh lợi, mọi người không có sự ham thích những điều tốt đẹp; nhưng khi chúng Tỳ-kheo được thịnh lợi, mọi người mới sanh tâm ham thích những điều tốt đẹp. Vì sự ham thích những điều tốt đẹp đã phát sanh, Thế Tôn muốn đoạn trừ sự ham thích những điều tốt đẹp đó, bèn thiết lập học giới cho đệ tử. Cũng vậy, khi chúng Tỳ-kheo được tán thán, được lớn mạnh, có những bậc Thượng tôn được hàng vương giả biết đến, phước đức lớn, học vấn nhiều.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi chúng Tỳ-kheo không có những người thông thái, mọi người không sanh tâm ham thích những điều tốt đẹp; nhưng khi chúng Tỳ- kheo có những người thông thái, mọi người bèn sanh tâm ham thích những điều tốt đẹp. Vì sự ham thích những điều tốt đẹp đã phát sanh, Thế Tôn muốn đoạn trừ sự ham thích những điều tốt đẹp ấy, cho nên thiết lập học giới cho các đệ tử.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, không chỉ vì để đoạn trừ hữu lậu trong hiện tại mà Ta thiết lập học giới cho các đệ tử. Ta cũng vì để đoạn trừ hữu lậu ở trong đời sau nên Ta thiết lập học giới cho các đệ tử. Này Bạt-đà-hòa-lợi, vì vậy, Ta vì để đoạn trừ hữu lậu nên Ta thiết lập học giới cho đệ tử, khi đến vâng lãnh lời dạy của Ta.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, trước kia Ta đã từng nói thí dụ về ngựa thuần giống cho

các Tỳ-kheo. Ở trong đó, do nhân gì, duyên gì, thầy có nhớ chăng?

Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bạch:

– Bạch Thế Tôn, trong ấy có nguyên nhân. Vì sao vậy? Thế Tôn thiết lập học giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo; chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng lãnh học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Chỉ riêng con tuyên bố là không kham nổi, từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, vì không học theo giới Cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, đó gọi là trong ấy có nguyên nhân.

Đức Thế Tôn lại nói với Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi:

– Trong đó không phải chỉ có nguyên nhân như vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nói thí dụ về loài ngựa thuần giống cho các Tỳ-kheo thì thầy hẳn là không nhất tâm, không khéo cung kính, không tư niệm mà nghe. Này Bạt-đà- hòa-lợi, đó gọi là trong ấy lại còn có nguyên nhân khác nữa vậy.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng lúc! Bạch Thiện Thệ, nay thật là đúng lúc! Nếu Thế Tôn nói thí dụ về con ngựa thuần giống cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn nói, sẽ cẩn thận ghi nhớ.

Đức Thế Tôn nói:

– Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng như người biết cách huấn luyện ngựa, được một con ngựa tốt thuần giống. Người giỏi huấn luyện ấy trước hết trị cái miệng của nó. Sau khi trị miệng, tất nhiên nó sẽ không thích với sự chuyển động muốn hay không muốn. Vì sao vậy? Vì nó chưa từng được trị. Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu con ngựa tốt thuần thục tuân theo cách trị của người huấn luyện, cách trị thứ nhất được thành tựu. Nhưng người huấn luyện lại phải trị bằng cách dàm mõm, cùm chân; cùm chân, dàm mõm, nhưng khiến nó sải, đi, cần phải làm cho nó dừng lại, chạy đua, có thể để vua cưỡi; đi không gì hơn, trầm tĩnh không gì hơn; trị các chi thể khác, thảy đều huấn luyện cho thành tựu. Tất nhiên nó không thích với chuyển động, hoặc muốn hay không muốn. Vì sao vậy? Vì bị sửa trị nhiều lần. Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu con ngựa tốt thuần giống, với người huấn luyện, được sửa trị nhiều lần cho đến thành tựu; lúc bấy giờ nó là con ngựa thuần thục, được đệ nhất vô thượng thuần thục, vô thượng hành, đệ nhất hành, rồi sung vào cho vua cưỡi, ăn thóc của vua, được gọi là ngựa vua.

Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng vậy, nếu bấy giờ có một người hiền minh, có trí, thành tựu mười pháp vô học, vô học chánh kiến cho đến vô học chánh trí; người ấy lúc bấy giờ là một người thuần thục, khéo thuần thục, vô thượng thuần thục, được đệ nhất vô thượng thuần thục, vô thượng tĩnh chỉ, đệ nhất tĩnh chỉ, diệt trừ tất cả tà vạy, diệt trừ tất cả ô uế, diệt trừ tất cả sợ hãi, diệt trừ tất cả si ám, diệt trừ tất cả siểm nịnh, lắng đọng mọi trần lao, thanh tịnh mọi cấu trược, không còn gì để bị dính trước, đáng kính, đáng trọng, đáng phụng, đáng thờ, là ruộng phước cho hết thảy chư thiên và nhân loại.

Phật thuyết như vậy, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.