Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

 

193. KINH MÂU-LÊ-PHÁ-QUẦN-NA

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na thường tụ hội với các Tỳ-kheo-ni. Nếu có vị nào trước mặt Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na nói xấu các Tỳ-kheo-ni thì thầy ấy nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã. Hoặc có vị nào trước mặt Tỳ-kheo-ni nói xấu Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na thì các Tỳ-kheo-ni nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã. Một số đông các Tỳ-kheo nghe vậy liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên và thưa:

– Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na thường tụ hội với các Tỳ-kheo-ni. Nếu có vị nào trước mặt Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na nói xấu các Tỳ-kheo-ni thì thầy ấy nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã. Hoặc có vị nào trước mặt các Tỳ-kheo-ni nói xấu Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na thì các Tỳ-kheo-ni nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã.

Đức Thế Tôn nghe rồi bảo một Tỳ-kheo:

– Thầy hãy đến chỗ Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na và nói: “Đức Thế Tôn cho gọi thầy.”

Vị Tỳ-kheo ấy nghe bảo, bèn nói:

– Kính vâng, bạch Thế Tôn!

Rồi vị ấy đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh ba vòng và ra đi. Vị Tỳ-kheo đó đến chỗ Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na nói:

– Đức Thế Tôn cho gọi thầy!

Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na nghe vậy liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân rồi ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này Mâu-lê-phá-quần-na, có thật thầy thường tụ hội cùng với các Tỳkheo-ni? Và nếu có vị nào trước mặt thầy nói xấu các Tỳ-kheo-ni, thầy nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã; hoặc có vị nào trước mặt các Tỳ-kheoni nói xấu thầy thì các Tỳ-kheo-ni nghe vậy liền sân hận, hằn học cho đến cãi vã. Này Quần-na, có thật vậy không?

Tỳ-kheo Quần-na thưa:

– Bạch đức Thế Tôn, điều đó có thật!

Đức Thế Tôn lại hỏi:

– Này Phá-quần-na, thầy không phải là chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo chăng?

Phá-quần-na đáp:

– Thưa phải, bạch Thế Tôn!

Đức Thế Tôn hỏi:

– Này Phá-quần-na, như vậy, người chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì hãy học như thế này: Nếu có dục, có niệm nương trên thế tục thì phải đoạn trừ chúng. Nếu có dục, có niệm nương trên vô dục thì hãy tu tập điều này, hãy phát triển điều này. Này Phá-quần-na, thầy hãy học như vậy.

Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:

– Các thầy có phải chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo chăng?

Các vị Tỳ-kheo đáp:

– Thưa phải, bạch Thế Tôn!

Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo:

– Các thầy chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì hãy học như thế này: Nếu có dục, có niệm nương trên thế tục thì hãy đoạn trừ chúng. Nếu có dục, có niệm nương trên vô dục thì hãy tu tập điều này, hãy phát triển điều này. Các thầy hãy học như vậy.

Một thời, Ta đã từng nói với các Tỳ-kheo: “Này các thầy, hoặc có Tỳ-kheo được biết đến nhiều, hoặc có Tỳ-kheo ít được biết đến, tất cả các thầy hãy học điều nhứt tọa thực; học nhứt tọa thực rồi, được vô vi, vô cầu, không bệnh tật, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn, sảng khoái.”

Các Tỳ-kheo ấy hoặc được biết đến nhiều, hoặc ít được biết đến, tất cả đều học theo điều nhứt tọa thực. Sau khi học theo điều nhứt tọa thực, họ được vô vi, vô cầu, không tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn, sảng khoái. Những Tỳ-kheo ấy hài lòng Ta; và Ta cũng không phải khuyên giáo, khiển trách nhiều. Các Tỳ-kheo nhân đó mà sanh khởi suy niệm pháp tùy pháp hành. Cũng như người điều khiển chiếc xe ngựa, tay trái cầm cương, tay phải cầm roi, nó theo tám con đường mà đi, muốn đến nơi nào cũng được. Các Tỳ-kheo như vậy rất hài lòng Ta; và Ta cũng không phải khuyến giáo, khiển trách nhiều. Các Tỳ-kheo nhân đó sanh khởi suy niệm pháp tùy pháp hành.

Cũng như khoảng đất tốt có rừng cây sa-la. Người săn sóc rừng kia thông minh sáng suốt, không biếng nhác, tùy lúc săn sóc gốc rễ cây sa-la, thường cào bừa những rác rưới và luôn luôn tưới nước, san bằng chỗ cao, lấp bằng chỗ thấp; nếu cỏ dại mọc đầy hai bên thì nhổ bỏ đi; nếu cây nào cong queo, xấu xí, không ngay thẳng thì nhổ gốc bỏ ra ngoài; nếu có nhánh nào đâm ngang và cong thì chặt xuống hay uốn lại; nếu bên cạnh có mọc thêm cây nào đều đặn, ngay thẳng thì tùy lúc mà sửa soạn, thường cào bừa những rác rưới và tưới nước. Như vậy, trên khu đất tốt kia, rừng cây sa-la càng ngày càng sầm uất. Cũng vậy, các Tỳ-kheo làm hài lòng Ta; và Ta cũng không phải khuyến giáo, khiển trách nhiều.

Ta không nói các Tỳ-kheo là thiện ngữ, cung thuận do các nhu dụng sinh sống, y bát, ẩm thực, giường chõng, thuốc thang. Vì sao vậy? Tỳ-kheo ấy nếu không nhận được các thứ ấy thì trả lại bằng sự không thiện ngữ, cung thuận, thành tựu cái tính không thiện ngữ, cung thuận. Nếu có Tỳ-kheo là vị viễn ly, nương trên viễn ly, sống trong sự viễn ly, là vị thiện ngữ, cung thuận, thành tựu tánh thiện ngữ, cung thuận, Ta nói vị ấy thật sự là thiện ngữ, cung thuận. Vì sao vậy? Ở đây, một Tỳ-kheo thủ hộ cẩn thận mà sống; trong trường hợp gặp người khác, không nói thô ác. Nếu người khác nói thô ác, vị ấy cũng không phẫn nộ, cũng không thù ghét, cũng không ưu sầu oán hận, không hằn học giận dữ, không lộ vẻ hung bạo. Các Tỳ-kheo kia sau khi thấy vậy bèn nghĩ rằng: “Hiền giả đó thật là người nhẫn nhục, ôn hòa, giỏi chịu đựng, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.” Nếu người khác nói thô ác mà vị ấy giận dữ, thù ghét, ưu phiền, ôm hận, lộ vẻ hung dữ, các Tỳ-kheo kia thấy vậy bèn nghĩ: “Hiền giả này ngoan cố, nóng nảy, thô lỗ, không định tĩnh, không tự chế, không tịch tịnh.” Vì sao vậy?

Này các Tỳ-kheo, có một nữ cư sĩ tên là Bệ-đà-đề, rất giàu sang, sung sướng, có nhiều tiền tài, sản nghiệp súc mục không thể kể xiết, phong hộ thực ấp, lúa gạo dẫy đầy và nhiều nhu dụng sinh sống khác. Bấy giờ, nữ cư sĩ Bệ-đàđề được vang danh khắp nơi với tiếng tốt như vầy: “Nữ cư sĩ Bệ-đà-đề là người nhẫn nhục, nhu thuận, ôn hòa, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.”

Bấy giờ, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề có một nữ tỳ tên là Hắc Bổn, hầu hạ, ăn nói dịu dàng, ít nhiều hành thiện. Nữ tỳ Hắc Bổn nghĩ rằng: “Chủ nhân ta, nữ cư sĩ Bệđà-đề, được vang danh khắp nơi với tiếng tốt như vầy: ‘Nữ cư sĩ Bệ-đà-đề là người nhẫn nhục, nhu thuận, ôn hòa, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.’ Nay ta hãy thử xem chủ nhân nữ cư sĩ Bệ-đà-đề thật sự có sân hay không sân.”

Rồi nữ tỳ Hắc Bổn nằm ngủ, không dậy sớm. Phu nhân gọi dậy: “Hắc tỳ, sao ngươi không dậy sớm?” Hắc tỳ nghe vậy bèn nghĩ rằng: “Chủ nhân ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, thật sự có sân chứ không phải không sân. Nhưng vì ta giỏi lo liệu việc nhà, giỏi quán xuyến và chu tất, khiến cho chủ ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, được vang danh khắp nơi với tiếng tốt như vầy: ‘Nữ cư sĩ Bệ-đà-đề là người nhẫn nhục, nhu thuận, ôn hòa, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.’ Nay ta hãy thử thách hơn nữa, xem chủ ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, thật sự có sân hay không sân.”

Rồi Hắc tỳ ngủ không dậy sớm. Phu nhân gọi dậy: “Hắc tỳ, sao ngươi dậy quá trễ vậy?” Hắc tỳ nghe vậy bèn suy nghĩ: “Chủ ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, thật sự có sân chứ không phải không sân. Nhưng vì ta khéo lo liệu việc nhà, giỏi quán xuyến và chu tất, khiến cho chủ ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, được vang danh khắp nơi với tiếng tốt như vầy: ‘Nữ cư sĩ Bệ-đà-đề là người nhẫn nhục, nhu thuận, ôn hòa, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.’ Nay ta lại thử thách thật lớn, xem chủ ta, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề, thật sự có sân hay không sân.”

Rồi Hắc tỳ ngủ đến xế trưa mới dậy. Phu nhân gọi nó: “Hắc tỳ, sao ngươi ngủ đến xế trưa mới dậy? Ngươi đã không chịu làm việc, cũng không bảo người khác làm. Con Hắc tỳ này không nghe ta dạy. Con Hắc tỳ này khinh mạn ta.” Phu nhân thịnh nộ, hằn học, trán nổi ba đường gân, mặt mày nhăn nhó, tự mình đến cánh cửa đang đóng, rút then cửa, tay cầm gậy đánh vào đầu nữ tỳ vỡ đầu chảy máu.

Rồi Hắc tỳ với cái đầu vỡ chảy máu, chạy qua nói với hàng xóm, lớn tiếng phân bua, nói xấu đủ điều rằng: “Này các ngài, hãy xem, việc làm của người nhẫn nhục, nhu thuận, ôn hòa, giỏi tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh là như vậy chăng? Người ấy mắng chửi tôi rằng: ‘Con Hắc tỳ này, sao ngươi ngủ đến xế trưa mới dậy? Ngươi đã không chịu làm việc, cũng không bảo người khác làm. Con Hắc tỳ này không nghe lời ta dạy. Con Hắc tỳ này khinh mạn ta.’ Bà thịnh nộ, hằn học, trán nổi ba đường gân, mặt mày nhăn nhó, tự mình đi đến cánh cửa đang đóng, rút then cửa, tay cầm gậy đánh vào đầu tôi vỡ đầu chảy máu.” Bấy giờ, nữ cư sĩ Bệ-đà-đề được đồn xa khắp nơi với tiếng xấu như vầy: “Nữ cư sĩ Bệ-đà-đề hung dữ, nóng nảy, thô lỗ, không tự chế, không định tĩnh, không tịch tịnh.”

Cũng vậy, ở đây, một người khéo thủ hộ, khéo đi, khéo đến là do người khác không nói lời thô ác. Khi người khác không nói lời thô ác thì vị ấy không phẫn nộ, không thù ghét, không ưu phiền, oán hận, không giận dữ, thù nghịch, không lộ vẻ hung dữ. Các Tỳ-kheo kia thấy vậy bèn nghĩ rằng: “Hiền giả này là người nhẫn nhục, ôn hòa, giỏi chịu đựng, khéo tự chế, khéo định tĩnh, khéo tịch tịnh.” Nếu khi người khác nói lời thô ác, vị ấy bèn phẫn nộ, hằn học, ưu phiền, oán hận, giận dữ, thù nghịch, lộ vẻ hung dữ. Các Tỳ-kheo kia thấy vậy bèn nghĩ rằng: “Hiền giả này hung dữ, nóng nảy, thô lỗ, không định tĩnh, không tự chế, không tịch tịnh.”

Lại nữa, có năm cách nói: Hoặc nói đúng thời hay phi thời, hoặc nói chân thật hay không chân thật, hoặc nói dịu dàng hay cứng nhắc, hoặc nói từ hòa hay sân nhuế, hoặc nói có nghĩa hay không nghĩa. Với năm cách nói này, các thầy nếu khi người khác nói mà tâm bị biến đổi, có thể miệng phát ra lời nói thô ác, Ta nói các thầy do đó tất bị suy thoái.

Các thầy hãy học đối với năm cách nói này, khi người khác nói, tâm các thầy không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác; hãy hướng đến kẻ thù nghịch, hãy duyên nơi kẻ thù nghịch mà khởi tâm từ mẫn, tâm tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trú. Cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ duy, trên, dưới, bao trùm tất cả, tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Cũng vậy, bi và hỷ, tâm tương ưng với xả, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy.

Cũng như một người cầm cái cuốc rất lớn đi đến và nói: “Tôi có thể làm cho cả mặt đất này trở thành không phải đất.” Người ấy bèn đào chỗ này, đào chỗ kia rồi nhổ nước miếng, nước tiểu để làm dơ bẩn và nói lời thô ác như vầy: “Mong cả mặt đất này không phải là đất!” Các thầy nghĩ sao? Người ấy do phương tiện ấy có thể làm cho cả mặt đất này trở thành không phải đất được chăng?

Các Tỳ-kheo trả lời:

– Không thể được, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Vì cả mặt đất này rất sâu, rất rộng không thể lường được. Cho nên người ấy với phương tiện như thế không thể làm cho cả mặt đất này trở thành không phải đất. Bạch Thế Tôn, người ấy chỉ tự gây phiền nhọc vô ích mà thôi.

– Cũng vậy, với năm cách nói này mà người khác nói, đúng thời hay không đúng thời, nói chân thật hay không chân thật, nói dịu dàng hay cứng nhắc, nói từ hòa hay sân nhuế, nói có nghĩa hay không có nghĩa; các thầy đối với năm cách nói này, khi người khác nói mà tâm biến đổi hay miệng phát ra lời nói thô ác, Ta nói các thầy do đó tất bị suy thoái. Các thầy hãy học đối với năm cách nói này, khi người khác nói, tâm các thầy không biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác; hãy hướng đến người nói ấy, duyên nơi người nói ấy mà khởi tâm từ mẫn, tâm hành như mặt đất, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy.

Cũng như một người cầm cây đuốc bằng cỏ rất lớn mà nói như vầy: “Tôi với cây đuốc bằng cỏ này, sẽ đun nóng sông Hằng cho sôi sục lên.” Các thầy nghĩ sao? Người đó bằng phương tiện như vậy có thể làm cho sông Hằng nóng sôi lên chăng?

Các Tỳ-kheo trả lời:

– Không thể được, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Vì sông Hằng rất sâu, rất rộng không thể đo lường được. Cho nên người ấy với phương tiện như thế không thể làm cho sông Hằng nóng và sôi sục lên được. Bạch Thế Tôn, người ấy chỉ tự gây phiền nhọc vô ích mà thôi.

– Cũng vậy, với năm cách nói này, nếu người khác nói đúng thời hay không đúng thời, nói chân thật hay không chân thật, nói dịu dàng hay cứng nhắc, nói từ hòa hay sân nhuế, nói có nghĩa hay không nghĩa, các thầy đối với năm cách nói này, khi người khác nói mà tâm biến đổi, hoặc miệng phát ra lời nói thô ác, Ta nói các thầy do đó tất bị suy thoái. Các thầy hãy học năm cách nói này, nếu khi người khác nói, tâm các thầy không biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác; hãy hướng đến người nói ấy, duyên nơi người nói ấy mà khởi tâm từ mẫn, tâm hành như sông Hằng, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy!

Cũng như thợ vẽ hay đệ tử của thợ vẽ cầm đủ các loại màu và nói như vầy: “Ở nơi hư không này, tôi vẽ lên các hình tượng.” Rồi người đó tô lên các loại màu. Các thầy nghĩ sao? Thợ vẽ hay đệ tử của thợ vẽ ấy bằng phương tiện như thế có thể vẽ lên hư không các hình tượng rồi tô lên các loại màu chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Không thể được, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, hư không này không phải là vật sắc, không thể thấy, không có đối ngại; do đó, thợ vẽ hay đệ tử của thợ vẽ ấy bằng phương tiện như vậy không thể vẽ lên hư không các hình tượng rồi tô lên các loại màu. Thợ vẽ và đệ tử của thợ vẽ chỉ tự gây phiền nhọc vô ích mà thôi.

– Cũng vậy, bằng năm cách nói này mà người khác nói, hoặc đúng thời hay không đúng thời, hoặc chân thật hay không chân thật, hoặc dịu dàng hay cứng nhắc, hoặc từ hòa hay sân nhuế, hoặc có nghĩa hay không có nghĩa; các thầy đối với năm cách nói này, khi người khác nói, tâm không biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác; hãy hướng đến người nói ấy, duyên nơi người nói ấy mà khởi tâm từ mẫn, tâm hành như hư không, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy.

Cũng như một cái túi bằng da mèo đã được thuộc mềm, rất mềm mại, làm hết tiếng xì xọp, không còn tiếng xì xọp, và có một người hoặc nắm tay đấm, hoặc lấy đá chọi, hoặc dùng gậy đánh, hoặc lấy dao chém, hoặc đập xuống đất. Các thầy nghĩ sao? Cái túi da mèo đã được thuộc mềm, rất mềm mại, làm hết tiếng xì xọp, không còn tiếng xì xọp, bấy giờ lại phát ra tiếng kêu xì xọp nữa chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Không thể được, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, cái túi bằng da mèo ấy đã được thuộc mềm, rất mềm mại, làm hết tiếng xì xọp, không còn tiếng xì xọp; cho nên nó không còn phát ra tiếng xì xọp nữa.

– Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, nếu có người khác hoặc nắm tay đấm, hoặc lấy đá chọi, gậy đánh, dao chém các thầy; nếu khi bị người khác nắm tay đấm, đá chọi, gậy đánh, dao chém mà tâm các thầy biến đổi, hoặc miệng phát ra lời nói thô ác, Ta nói các thầy nhân đó tất bị suy thoái. Các thầy hãy học như vầy: Nếu bị người khác lấy tay đấm, đá chọi, gậy đánh, dao chém, tâm các thầy không biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác; hãy hướng đến người đánh đập, duyên nơi người đánh đập mà khởi tâm từ mẫn, tâm hành như cái túi da mèo, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy!

Nếu có giặc cướp đến, lấy lưỡi cưa bén cắt xẻ tay chân chi tiết các thầy; nếu khi có giặc cướp đến, lấy lưỡi cưa bén cắt xẻ tay chân chi tiết mà tâm các thầy biến đổi, hoặc miệng phát ra lời nói thô ác, Ta nói các thầy nhân đó tất bị suy thoái. Các thầy hãy học như vầy: Nếu có giặc cướp đến, lấy lưỡi cưa bén cắt xẻ tay chân chi tiết, tâm các thầy không biến đổi, miệng không phát ra lời nói thô ác, hãy hướng đến người cắt xẻ ấy, duyên nơi người cắt xẻ ấy mà khởi tâm từ mẫn, tâm tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú. Cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ duy, trên, dưới, bao trùm tất cả, tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu an trú. Cũng vậy, bi và hỷ, tâm tương ưng với xả, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Các thầy hãy học như vậy.

Bấy giờ, đức Thế Tôn tán thán các Tỳ-kheo:

– Lành thay! Lành thay! Các thầy hãy luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn. Các thầy sau khi luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn rồi, các thầy lại còn thấy rằng: “Người kia nói lời thô ác, không khả ái đối với ta; sau khi ta nghe, không thể chịu đựng nổi” chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Không có, bạch Thế Tôn!

Đức Thế Tôn lại tán thán các Tỳ-kheo:

– Lành thay! Lành thay! Các thầy hãy luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn. Các thầy sau khi luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn rồi, các thầy nếu đi đến ở phương Đông, chắc chắn được an lạc, không có các khổ nạn. Nếu đi đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc, cũng chắc chắn được an lạc, không có các khổ hoạn.

Lành thay! Lành thay! Các thầy hãy luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn. Các thầy sau khi luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn rồi, Ta còn không nói đối với các pháp thiện mà các thầy đã an trú, huống nữa là nói đến sự suy thoái; chỉ còn sự tăng trưởng thiện pháp ngày đêm chứ không còn sự suy thoái nữa.

Lành thay! Lành thay! Các thầy hãy luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn. Các thầy sau khi luôn luôn suy niệm về thí dụ lưỡi cưa bén cho giáo huấn Sa-môn rồi, trong hai quả chắc chắn được một, hoặc ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc Cứu cánh trí, hoặc chứng đắc A-na-hàm nếu còn hữu dư y.

Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.