Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa trong nước Ương-già cùng với đại chúng Tỳ-kheo đông đủ, đến A-hòa-na, ở tại tịnh xá Kiền-nhã.
Bấy giờ, sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đức Thế Tôn đắp y, cầm bát đi vào A-hòa-na khất thực. Ăn xong, sau buổi trưa, Ngài cất y, cất bát, rửa tay chân, lấy tọa cụ vắt lên vai, đi đến một khu rừng để nghỉ. Tôn giả Ô-đà-di cũng sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đắp y, cầm bát, đi vào A-hòa-na khất thực. Sau khi ăn xong, sau buổi trưa, Tôn giả cất y bát, rửa tay chân, lấy tọa cụ vắt lên vai, đi theo hầu sau Phật mà nghĩ như vầy: “Nếu Thế Tôn nay đi nghỉ ở đâu, ta cũng đến nghỉ ở đó.”
Rồi Thế Tôn vào trong rừng, đến nơi một gốc cây, trải tọa cụ và ngồi kiếtgià. Tôn giả Ô-đà-di cũng đi vào khu rừng ấy, cách Phật không xa, đến nơi một gốc cây, trải tọa cụ và ngồi kiết-già.
Bấy giờ, Tôn giả Ô-đà-di một mình ngồi tĩnh tọa chỗ thanh vắng và tư duy, trong tâm nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn làm lợi ích rất nhiều cho chúng ta; đức Thiện Thệ mang lại sự an ổn rất nhiều cho chúng ta; đức Thế Tôn trừ được các pháp khổ, làm tăng thêm pháp lợi ích, an lạc cho chúng ta; đức Thế Tôn trừ cho chúng ta vô lượng pháp ác, bất thiện, làm tăng thêm vô lượng pháp thiện vi diệu cho chúng ta.”
Vào lúc xế trưa, Tôn giả Ô-đà-di từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn bảo:
– Này Ô-đà-di, thầy không mệt mỏi, được an ổn, khoái lạc, khí lực bình thường chăng?
Tôn giả Ô-đà-di bạch:
– Bạch Thế Tôn, con không có mệt mỏi, vẫn an ổn, khoái lạc và khí lực bình thường.
Thế Tôn lại hỏi:
– Này Ô-đà-di, tại sao thầy không mệt mỏi, thường được an ổn, khoái lạc và khí lực bình thường?
Tôn giả Ô-đà-di đáp:
– Bạch Thế Tôn, con một mình ngồi tĩnh tọa ở chỗ thanh vắng và tư duy, trong tâm suy nghĩ: “Đức Thế Tôn làm lợi ích rất nhiều cho chúng ta; bậc Thiện Thệ mang lại sự an ổn rất nhiều cho chúng ta; đức Thế Tôn trừ các pháp khổ, làm tăng trưởng pháp lợi ích, an lạc cho chúng ta; đức Thế Tôn trừ vô lượng pháp ác, bất thiện, làm tăng trưởng vô lượng pháp thiện vi diệu cho chúng ta.” Bạch Thế Tôn, khi xưa Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Hãy dứt trừ việc ăn quá ngọ!” Bạch Thế Tôn, chúng con nghe rồi nhưng không kham, không nhẫn, không muốn, không ưa và nghĩ rằng: “Nếu có Phạm chí, cư sĩ có tín tâm đi đến chúng viên bố thí rộng rãi, tạo phước thì chúng ta tự tay nhận lấy đồ ăn. Nhưng Thế Tôn hôm nay dạy chúng ta từ bỏ điều này, đức Thiện Thệ dạy chúng ta dứt tuyệt điều này.” Chúng con lại nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Nhưng chúng con đối với oai thần, diệu đức của Thế Tôn, kính trọng, bất kham, cho nên chúng con chấm dứt việc ăn sau giờ ngọ.
Lại nữa, khi xưa Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Các thầy hãy dứt trừ việc ăn tối!” Bạch Thế Tôn, chúng con nghe rồi nhưng không kham, không nhẫn, không muốn, không ưa. Chúng con nghĩ rằng: “Trong khi bữa ăn rất tối thượng, tối diệu, tối thắng, tối mỹ mà Thế Tôn nay dạy ta dứt tuyệt cả.” Chúng con lại nói: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.”
Bạch Thế Tôn, khi xưa có một cư sĩ mang rất nhiều các thứ đồ ăn, thức uống ngon lành trở về nhà và bảo người nhà rằng: “Các ngươi hãy lấy đồ ăn này đem cất một chỗ. Ta sẽ tụ họp mọi người để ăn ban đêm, không ăn buổi sáng và buổi trưa.” Bạch Thế Tôn, “Nếu các nhà bày soạn các món ăn rất ngon lành thượng diệu, chỉ ăn trong ban đêm mà ta thì buổi sáng và buổi trưa, nhưng Thế Tôn nay dạy ta từ bỏ điều này, đức Thiện Thệ dạy ta dứt trừ điều này.” Chúng con lại nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Nhưng chúng con đối với oai thần, diệu đức của Thế Tôn, kính trọng, bất kham, cho nên chúng con chấm dứt việc ăn ban đêm.
Bạch Thế Tôn, con lại nghĩ rằng: “Nếu có Tỳ-kheo phi thời đi vào thôn ấp khất thực, hoặc có thể gặp kẻ đạo tặc đang hành sự hay chưa hành sự, hoặc gặp cọp, gặp nai, hoặc gặp cả cọp và nai, hoặc gặp beo, hoặc gặp gấu, hoặc gặp cả beo và gấu, hoặc qua những chỗ như vậy, hoặc gặp voi dữ, ngựa chứng, trâu điên, chó dại, hoặc gặp ổ rắn, hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc té vào mương rãnh, hoặc rơi vào hầm xí, hoặc cưỡi lên trâu đang nằm, hoặc lọt xuống hầm sâu, hoặc vướng vào bụi gai, xem xét thấy nhà trống mà bước vào nhà như vậy, khi vào trong đó rồi người con gái thấy rủ rê làm việc bất tịnh, hạnh xấu xa.”
Bạch Thế Tôn, xưa có một Tỳ-kheo trong đêm tăm tối, trời mưa lâm râm, chớp lóe như lửa xẹt mà phi thời đi vào nhà người ta để khất thực. Bấy giờ, người đàn bà đi ra ngoài rửa chén bát. Khi ấy, người đàn bà này trong cơn chớp lóe, trông xa thấy Tỳ-kheo tưởng là quỷ. Thấy rồi, bà ta kinh hãi, lông tóc dựng ngược, thất thanh la lớn, tức thì ngã xuống, miệng nói rằng: “Ông là quỷ! Ông là quỷ!” Tỳ-kheo nói với người đàn bà đó rằng: “Này cô em, tôi không phải là quỷ đâu, tôi là Sa-môn đến khất thực.” Bấy giờ, người đàn bà ấy giận và mắng vị Tỳ-kheo rất nhức nhối, rất dữ dằn: “Sa-môn hãy chết gấp đi! Bố mẹ Sa-môn hãy chết gấp đi! Dòng họ Sa-môn hãy tuyệt diệt đi! Sa-môn hãy lòi ruột đi! Sa-môn trọc đầu, đen thui, tuyệt tự, không con cái! Hãy cầm dao bén mà tự mổ bụng đi chứ đừng đi khất thực phi thời ban đêm. Ôi chao! Tại Sa-môn mà tôi bị té.” Bạch Thế Tôn, con nhớ vị ấy rồi tâm sanh hân hoan. Bạch Thế Tôn, con nhờ sự hân hoan này mà sung mãn châu thân, chánh niệm, chánh trí, phát sanh hỷ, khinh an, lạc, định. Bạch Thế Tôn, con nhờ định này, sung mãn châu thân mà được chánh niệm, chánh trí. Như vậy, bạch Thế Tôn, con không mệt mỏi, thường được an ổn, khoái lạc, khí lực bình thường.
Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Này Ô-đà-di, ông nay không phải như kẻ mê mờ kia. Khi Ta nói với người mê mờ ấy rằng: “Các thầy hãy từ bỏ điều này” thì họ nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng nay Thế Tôn dạy ta phải từ bỏ việc ấy, Thiện Thệ muốn ta dứt tuyệt việc ấy.” Và họ cũng nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ không từ bỏ. Không phải chỉ với Ta mà họ không vừa ý, không nhẫn thọ; đối với các Tỳkheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, họ cũng không vừa ý, không nhẫn thọ. Này Ô-đà-di, những kẻ mê mờ bị trói buộc rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao không thể đoạn tuyệt, không được giải thoát.
Này Ô-đà-di, ví như có con ruồi bị dính dưới bãi nước mũi, nó ở trong đó hoặc khổ hoặc bị chết. Này Ô-đà-di, hoặc có người nói như vầy: “Con ruồi kia tuy bị dính mà không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao nên có thể đoạn tuyệt, có thể giải thoát.” Nói như vậy có đúng không?
Ô-đà-di bạch:
– Không đúng, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì con ruồi đã bị dính dưới bãi nước mũi, nó ở trong đó hoặc khổ hoặc bị chết. Thế nên, bạch Thế Tôn, con ruồi kia bị dính rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn tuyệt, không thể giải thoát.
– Này Ô-đà-di, những người mê mờ kia, Ta khuyên vị ấy rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này” thì họ nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn nay dạy ta phải từ bỏ việc ấy, Thiện Thệ muốn ta từ bỏ việc ấy.” Và họ cũng nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ không từ bỏ. Họ không chỉ không vừa ý, không nhẫn thọ đối với Ta; mà đối với các Tỳ-kheo khéo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, họ cũng không vừa ý, không nhẫn thọ. Này Ô-đà-di, người mê mờ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn tuyệt, không thể giải thoát. Này Ô-đà-di, nếu có một thiện nam tử nghe Ta nói rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này”, họ không nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ nó. Nhưng Thế Tôn nay dạy ta từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta từ bỏ việc ấy.” Và cũng không nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ từ bỏ. Họ đối với Ta không sanh tâm không vừa ý, không nhẫn thọ; và đối với các Tỳ-kheo khéo giữ gìn giới hạnh, cũng không sanh tâm không vừa ý, không nhẫn thọ. Này Ô-đà-di, thiện nam tử ấy bị trói không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn tuyệt, có thể giải thoát.
Này Ô-đà-di, ví như con voi chúa to lớn sống đến sáu mươi năm, đã thành một Ma-ha-năng-già kiêu ngạo, đủ ngà, đủ vóc, gân sức tráng kiện; nó bị trói chặt, nhưng nó nỗ lực chuyển mình, sự trói chặt kia liền bị bứt và nó trở về chỗ cũ. Này Ô-đà-di, nếu có người nói như vầy: “Con voi chúa to lớn kia sống đến sáu mươi năm, đã thành một Ma-ha-năng-già kiêu ngạo, đủ ngà, đủ vóc, gân sức tráng kiện; nó bị trói chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn tuyệt, không thể giải thoát.” Nói như vậy có đúng chăng?
Tôn giả Ô-đà-di bạch:
– Không đúng, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì con voi chúa to lớn kia sống đến sáu mươi năm, đã thành một Ma-ha-năng-già kiêu ngạo, đủ ngà, đủ vóc, gân cốt tráng kiện, bị trói chặt; nhưng nó nỗ lực cựa mình, sự trói chặt kia liền bị bứt và nó trở về chỗ cũ. Bạch Thế Tôn, cho nên con voi chúa to lớn kia sống đến sáu mươi năm, đã trở thành một Ma-ha-năng-già kiêu ngạo, gân cốt tráng kiện, sự trói buộc kia cũng không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn tuyệt, có thể giải thoát.
– Cũng như vậy, này Ô-đà-di, với thiện nam tử kia, Ta khuyên rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này” thì họ không nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn nay dạy ta từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta từ bỏ.” Và họ cũng không nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Và họ liền từ bỏ. Không chỉ đối với Ta vị ấy không sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận; mà đối với những Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, họ cũng không sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, thiện nam tử ấy bị trói không chặt, không cứng, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn tuyệt, có thể giải thoát. Này Ô-đà-di, với người mê mờ mà Ta khuyên dạy rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này” thì họ bèn nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn nay dạy ta từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta từ bỏ.” Và cũng nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ không chịu từ bỏ. Không chỉ đối với Ta họ sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận; mà đối với các Tỳ-kheo giữ giới hạnh cẩn thận, họ cũng sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, người mê mờ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn tuyệt, không thể giải thoát.
Này Ô-đà-di, ví như người nghèo cùng, không có của cải, cũng không có thế lực. Người ấy có một người vợ cặp mắt bị mù, lại xấu xí, không khả ái; có một cái nhà đổ nát, mưa dột, chim quạ bay đến đậu, không thể ở được; lại có một cái giường bị gãy sập, không thể nằm; có một cái bình bị lủng, không dùng được. Người ấy thấy vị Tỳ-kheo sau khi ăn xong, rửa sạch tay chân, trải tọa cụ ngồi một gốc cây mát mẻ, điều hòa và tu tập tăng thượng tâm. Người ấy thấy vậy, trong tâm nghĩ rằng: “Sa-môn thật là khoái lạc, Sa-môn như Niết-bàn. Còn ta thật là xấu xa vô đức. Vì sao? Vì ta có một người vợ mà cặp mắt bị mù, lại xấu xí, không khả ái, nhưng không thể lìa bỏ được; có một cái nhà lại bị đổ nát, mưa dột, chim quạ bay đến đậu, không thể ở, nhưng không thể bỏ; có một cái giường bị gãy sập, không thể nằm, nhưng không thể bỏ; có một cái bình bị lủng, không dùng được, nhưng cũng không thể bỏ. Ta ưa thích Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.” Này Ô-đà-di, nếu có người nói như vầy: “Người nghèo cùng kia không có tiền của, cũng không có thế lực, mà bị trói buộc không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn tuyệt, có thể giải thoát.” Nói như vậy có đúng chăng?
– Không đúng, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì người nghèo cùng kia, không có tiền của, cũng không có thế lực; có một người vợ mù, xấu xí, không khả ái, mà lại không thể bỏ; chỉ có một cái nhà đổ nát, mưa dột, chim quạ bay đến đậu, không thể ở, mà không thể bỏ; chỉ có một cái giường bị gãy sập, không thể nằm được, mà không thể bỏ; có một cái bình bị lủng, không dùng được, nhưng cũng không thể bỏ; dù người ấy ưa thích như vị Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Bạch Thế Tôn, cho nên người nghèo cùng kia, không có tiền của, cũng không có thế lực, bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn tuyệt, cũng không thể giải thoát được.
– Cũng vậy, này Ô-đà-di, nếu có người mê mờ mà Ta khuyên rằng: “Ngươi hãy từ bỏ điều ấy” thì người ấy lại nói: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn dạy ta phải từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta dứt tuyệt.” Và người ấy cũng nói: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi người ấy không đoạn trừ. Người ấy không chỉ đối với Ta sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận; mà đối với các Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, người ấy cũng sanh tâm không vừa ý, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, cho nên người mê mờ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn trừ, không thể giải thoát. Này Ô-đà-di, nếu một thiện nam tử mà Ta khuyên họ rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này”, vị ấy không nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn dạy ta phải đoạn trừ, Thiện Thệ dạy ta phải dứt tuyệt.” Và cũng không nói: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Họ liền đoạn trừ. Đối với Ta, họ không sanh tâm không thích, không chấp nhận; và đối với các Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, họ cũng không sanh tâm không thích, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, cho nên thiện nam tử kia bị trói không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn trừ, có thể giải thoát.
Này Ô-đà-di, ví như cư sĩ, con cư sĩ rất giàu sang, sung sướng, rất nhiều tiền của, sản nghiệp súc mục không thể tính được, phong hộ, thực ấp, lúa gạo, bao nhiêu những thứ dùng sinh sống đều rất đầy đủ, nô tỳ, voi ngựa nhiều không kể xiết. Người ấy thấy vị Tỳ-kheo sau khi ăn xong, rửa sạch tay chân, trải tọa cụ ngồi nơi một gốc cây mát mẻ, điều hòa mà tu tập tăng thượng tâm. Thấy vậy, người ấy nghĩ rằng: “Sa-môn thật là khoái lạc, Sa-môn như Niết-bàn. Ta nên từ bỏ sự giàu sang, sung sướng, vàng bạc, châu báu, voi ngựa, nô tỳ; hâm mộ làm Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.” Này Ô-đà-di, có người lại nghĩ rằng: “Người cư sĩ, con người cư sĩ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn trừ, không được giải thoát.” Nói như vậy có đúng không?
Tôn giả Ô-đà-di bạch: – Không đúng, bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì người cư sĩ hay con người cư sĩ kia có thể xa lìa, vứt bỏ sự giàu sang, phú quý, vàng bạc, châu báu, lúa, voi, ngựa, nô tỳ để theo thầy Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Bạch Thế Tôn, cho nên người cư sĩ hay con người cư sĩ kia bị trói không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn trừ, có thể giải thoát được.
– Cũng như vậy, này Ô-đà-di, nếu thiện nam tử mà Ta khuyên rằng: “Ngươi hãy từ bỏ điều này” thì họ không nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải đoạn trừ. Nhưng Thế Tôn dạy ta phải đoạn trừ, Thiện Thệ muốn ta chấm dứt.” Và họ cũng không nói rằng: “Vị Đại Sa-môn này cũng không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ liền đoạn trừ. Đối với Ta họ không sanh tâm không thích, không chấp nhận; và đối với các Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, họ cũng không sanh tâm không thích, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, cho nên thiện nam tử kia bị trói mà không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn trừ, có thể giải thoát.
Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo tu hạnh xả. Vị ấy tu hạnh xả rồi, phát sanh suy niệm tương ưng với dục, bị ái lạc ràng buộc. Vị ấy ham thích nó, không đoạn, không trú, không vứt bỏ. Này Ô-đà-di, Ta nói đó là trói buộc, không nói là giải thoát. Vì sao? Vì các kiết sử bất thiện. Này Ô-đà-di, vì kiết sử bất thiện cho nên Ta nói đó là trói buộc, không nói là giải thoát.
Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo tu hạnh xả. Vị ấy tu hành xả rồi, phát sanh suy niệm tương ưng với dục, bị ái lạc ràng buộc. Vị ấy không ham thích nó, mà đoạn, trú, vứt bỏ. Này Ô-đà-di, Ta nói cũng là trói buộc, không nói là giải thoát. Vì sao? Vì các kiết sử bất thiện. Này Ô-đà-di, vì kiết sử bất thiện cho nên Ta nói là trói buộc, không nói là giải thoát. Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo tu hạnh xả. Vị ấy hạnh xả rồi, thỉnh thoảng lãng quên, đi đôi với suy niệm tương ưng với dục, bị ái lạc ràng buộc; sự quán chậm nên bị diệt mau. Này Ô-đà-di, ví như hòn sắt hay lưỡi cày sắt trọn ngày bị đốt; nếu có người nhỏ lên đó hai hoặc ba giọt nước, nhỏ chậm, không liên tục, nước bèn tiêu tan mau chóng. Này Ô-đà-di, cũng vậy, Tỳ-kheo tu hạnh xả. Vị ấy tu hạnh xả rồi, thỉnh thoảng lãng quên, đi đôi với suy niệm tương ưng với dục, bị ái lạc ràng buộc; sự quán chậm nên bị diệt mau. Này Ô-đà-di, Ta nói như thế là trói buộc, không phải là giải thoát. Vì sao? Vì các kiết sử là bất thiện. Này Ô-đà-di, vì kiết sử bất thiện cho nên Ta nói là trói buộc, không nói là giải thoát.
Này Ô-đà-di, cùng ở nơi gốc rễ của khổ mà du hành không sanh tử, ở nơi vô thượng ái tận mà thiện tâm giải thoát. Này Ô-đà-di, Ta nói là giải thoát, không nói là trói buộc. Vì sao? Vì các kiết sử đã chấm dứt. Này Ô-đà-di, vì các kiết sử đã chấm dứt cho nên Ta nói là giải thoát, không nói là trói buộc.
Này Ô-đà-di, có thứ lạc không phải là Thánh lạc mà là phàm phu lạc, là gốc rễ của bệnh hoạn, gốc rễ của mụt nhọt, gốc rễ của tên đâm, có nhân duyên, có sanh tử, không nên tu, không nên tập hành, không nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy không nên tu tập.
Này Ô-đà-di, có thứ lạc gọi là Thánh lạc, là lạc vô dục, lạc viễn ly, lạc thanh tịnh, lạc chánh giác, không nhân duyên, không sanh tử, nên tu, nên tập hành, nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy nên tu tập.
Này Ô-đà-di, thế nào gọi là thứ lạc không phải là Thánh lạc mà là phàm phu lạc, là gốc rễ của bệnh hoạn, gốc rễ của mụt nhọt, là gốc rễ của tên đâm, có nhân duyên, có sanh tử, không nên tu, không nên tập hành, không nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy không nên tu tập.
Nếu nhân nơi ngũ dục mà sanh lạc, sanh hỷ, đó là thứ lạc không phải là Thánh lạc, mà là phàm phu lạc, là gốc rễ của bệnh hoạn, gốc rễ của mụt nhọt, gốc rễ của tên đâm, có nhân duyên, có sanh tử, không nên tu, không nên tập hành, không nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy không nên tu tập.
Này Ô-đà-di, thế nào là có thứ lạc được gọi là Thánh lạc, là lạc vô dục, lạc viễn ly, lạc tịch tĩnh, lạc chánh giác, không nhân duyên, không sanh tử, nên tu, nên tập hành, nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy nên tu tập.
Này Ô-đà-di, nếu có Tỳ-kheo ly dục, ly pháp ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Đó là thứ lạc được gọi là Thánh lạc, là lạc vô dục, lạc viễn ly, lạc tịch tịnh, lạc chánh giác, không nhân duyên, không sanh tử, nên tu, nên tập hành, nên phát triển. Ta nói đối với sự lạc ấy nên tu tập.
Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục phát sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Bậc Thánh nói đó là di động. Trong đó, những gì mà bậc Thánh nói là di động? Trong đó có giác, có quán, bậc Thánh nói là di động.
Trong đây những gì mà bậc Thánh nói là di động? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo giác quán đã trừ, nội tâm tĩnh chỉ, nhất tâm, không giác, không quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Đó là điều mà bậc Thánh nói là di động. Trong đó những gì mà bậc Thánh nói là di động? Hỷ lạc được chứng đắc này mà bậc Thánh nói là di động.
Trong đó những gì mà bậc Thánh nói là di động? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo ly hỷ dục, trú xả, vô cầu, an trú chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc mà bậc Thánh gọi là “Thánh xả niệm lạc trú không”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Đó là điều mà bậc Thánh nói là di động. Trong đó những gì mà bậc Thánh gọi là di động? Nếu đây nói di động tức là tâm lạc. Đó điều mà bậc Thánh nói là di động.
Trong đó những gì mà Thánh nói không di động? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn đã diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Đó là điều mà bậc Thánh nói là không di động.
Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu và an trú. Này Ô-đà-di, Ta nói ở đây chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Trong đó có những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, đạt đến Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Đây là sự vượt qua được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói đây cũng chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo ly hỷ dục, xả, an trú vô cầu, chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc, điều mà Thánh gọi là Thánh xả niệm, lạc trú thất, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Đây là sự vượt qua được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói ở đây cũng chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo lạc diệt, khổ diệt, hỷ và ưu vốn có cũng diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, đạt đến cõi tứ thiền, thành tựu và an trú. Đây là sự quá độ được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói đó cũng chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo vượt qua khỏi tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy đến bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, chứng Vô lượng không xứ, thành tựu và an trú. Đây là sự quá độ được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói đó cũng chưa đạt được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ, thành tựu và an trú. Đây là sự quá độ được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói đó cũng chưa đạt được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, chứng đắc Vô sở hữu xứ, thành tựu và an trú. Đây là sự quá độ được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói đó cũng chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua. Vậy trong đó những gì là vượt qua? Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo nhập qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chứng Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu và an trú. Đây là sự quá độ được nói đến trong đó. Này Ô-đà-di, Ta nói cho đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ cũng chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua.
Này Ô-đà-di, có chăng một kiết sử nào, hoặc ít hoặc nhiều, tồn tại lâu dài mà Ta nói chưa được không, chưa được đoạn trừ, chưa được vượt qua; nghĩa là Ta nói không đoạn trừ?
Tôn giả Ô-đà-di bạch:
– Không có, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Này Ô-đà-di, thầy không phải như người mê mờ kia. Người mê mờ kia khi Ta khuyên rằng: “Các thầy hãy từ bỏ điều này” thì họ lại nói rằng: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn nay bảo ta nên từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta dứt tuyệt.” Và cũng nói rằng: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ không chịu từ bỏ. Không chỉ đối với Ta người ấy sanh tâm không thích, không chấp nhận; mà đối với các Tỳkheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, người ấy cũng sanh tâm không thích, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, cho nên người mê mờ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt gao, không thể đoạn trừ, không giải thoát được.
Này Ô-đà-di, nếu có thiện nam tử nào mà Ta khuyên rằng: “Các ngươi hãy từ bỏ điều này”, họ không nói như vầy: “Đó là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn nay dạy ta phải từ bỏ, Thiện Thệ muốn ta dứt tuyệt.” Và họ cũng không nói như vầy: “Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa nổi đồ ăn.” Rồi họ liền từ bỏ. Người ấy đối với Ta không sanh tâm không thích, không chấp nhận và đối với các Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận cũng không sanh tâm không thích, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, cho nên thiện nam tử kia bị trói không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể đoạn trừ, có thể giải thoát.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Ô-đà-di sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.