Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa giữa những người họ Thích, ở trong thành Ca-duy- la-vệ, rừng Ni-câu-loại.
Bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đắp y, cầm bát đi vào thành Ca-duy-la-vệ khất thực. Sau khi ăn xong, sau buổi trưa, Ngài đi đến tinh xá Ca-la-sai-ma-thích. Lúc bấy giờ, tại tinh xá Ca-la-sai-ma-thích có sắp đặt rất nhiều giường chõng, có rất nhiều Tỳ-kheo trú nghỉ ở trong đó. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ trong tinh xá Ca-la-sai-ma-thích đi ra, đến tinh xá Già-la-thích. Bấy giờ, Tôn giả A-nan và rất nhiều Tỳ-kheo ở trong tinh xá Già- la-thích đang làm y, Tôn giả A-nan từ xa trông thấy đức Phật sắp đến, liền ra nghinh tiếp, cầm y bát của Phật, trở vào trải giường ngồi, múc nước rửa chân. Phật rửa chân rồi ngồi trên chỗ ngồi mà A-nan đã trải sẵn trong tinh xá Già-la- thích và nói:
– Này A-nan, trong tinh xá Ca-la-sai-ma-thích có sắp đặt rất nhiều giường chõng, có rất nhiều Tỳ-kheo trú nghỉ ở trong đó chăng?
Tôn giả A-nan bạch:
– Quả như vậy, bạch Thế Tôn, trong tinh xá Ca-la-sai-ma-thích có sắp đặt rất nhiều giường chõng và có rất nhiều Tỳ-kheo đang trú nghỉ ở trong đó. Vì sao? Vì chúng con hôm nay đang làm y.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo A-nan:
– Tỳ-kheo không nên ham muốn nói chuyện ồn ào, hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, tụ tập để nói chuyện ồn ào, ham muốn đông người, hoan lạc với sự đông người, tụ tập đông người, không thích rời xa chỗ đông người, không thích sống cô độc ở nơi xa vắng. Tỳ-kheo nào ham nói chuyện ồn ào, hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, tụ tập để nói chuyện ồn ào, ham muốn đông người, hoan lạc với sự đông người, tụ tập đông người, không muốn rời xa chỗ đông người, không thích sống cô độc ở nơi xa vắng; vị ấy nếu có hoan lạc nơi sự hoan lạc của bậc Thánh, hoan lạc vô dục, hoan lạc viễn ly, hoan lạc tịch tịnh, hoan lạc chánh giác, hoan lạc không tài sản, hoan lạc phi sanh tử thì đối với những hoan lạc này, vị ấy đạt được dễ dàng, không khó; trường hợp này không thể xảy ra.
Này A-nan, Tỳ-kheo nào không ham muốn nói chuyện ồn ào, không hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, không tụ tập để nói chuyện ồn ào, không ham muốn đông người, không hoan lạc với sự đông người, không tụ tập đông người, muốn xa rời chỗ đông người, thường hoan lạc trong sự sống cô độc nơi xa vắng; vị ấy nếu có sự hoan lạc của bậc Thánh, hoan lạc vô dục, hoan lạc viễn ly, hoan lạc tịch tịnh, hoan lạc chánh giác, hoan lạc không tài sản, hoan lạc phi sanh tử thì đối với những hoan lạc này, vị ấy đạt được dễ dàng, không khó; trường hợp này tất có xảy ra.
Này A-nan, Tỳ-kheo không nên ham muốn nói chuyện ồn ào, hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, tụ tập để nói chuyện ồn ào, ham muốn đông người, hoan lạc với sự đông người, tụ tập đông người, không thích rời xa chỗ đông người, không thích cô độc nơi xa vắng. Tỳ-kheo nào ham muốn nói chuyện ồn ào, hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, tụ tập để nói chuyện ồn ào, ham muốn đông người, hoan lạc với sự đông người, tụ tập đông người, không muốn rời xa chỗ đông người, không thích sống ở nơi cô độc xa vắng; nếu vị ấy chứng đắc thời ái tâm giải thoát và bất thời bất động tâm giải thoát; trường hợp này hoàn toàn không xảy ra.
Này A-nan, Tỳ-kheo nào không ham muốn nói chuyện ồn ào, không hoan lạc trong sự nói chuyện ồn ào, không tụ tập để nói chuyện ồn ào, không ham muốn đông người, không hoan lạc với sự đông người, không tụ tập đông người, muốn xa rời chỗ đông người, thường hoan lạc trong sự sống cô độc nơi xa vắng; vị ấy chứng đắc thời ái tâm giải thoát và bất thời bất động tâm giải thoát; trường hợp này tất có xảy ra. Vì sao vậy?
Này A-nan, Ta không thấy có một sắc nào khiến Ta ham muốn, hoan lạc; và khi sắc ấy bại hoại, biến dịch, đổi khác thì sanh ra sầu, bi, khóc lóc, ưu, khổ, ảo não. Vì vậy, Ta an trú nơi một trú xứ khác mà thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, đó là vượt qua tất cả sắc tưởng, an trú nơi ngoại không. Này A-nan, Ta an trú nơi trú xứ này rồi, phát sanh sự hoan duyệt; sự hoan duyệt này Ta cảm thọ trong toàn thân với chánh niệm, chánh trí, rồi phát sanh hỷ, phát sanh khinh an, phát sanh lạc, phát sanh định; định này Ta cảm thọ toàn thân với chánh niệm, chánh trí. Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc hay ưu-bà-di nào tìm đến Ta, Ta sẽ vì họ mà an trú tâm như vậy, viễn ly, an lạc, vô dục; Ta cũng vì họ mà thuyết pháp, khuyến khích, hỗ trợ họ.
Này A-nan, Tỳ-kheo nào muốn thường an trú trong tánh không, Tỳ-kheo ấy sẽ giữ vững nội tâm, an trú, tĩnh chỉ, khiến được chuyên nhất và định. Vị ấy sau khi giữ vững nội tâm, an trú, tĩnh chỉ, khiến được chuyên nhất và định rồi, hãy suy niệm về nội không. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nói như vầy: “Tôi không giữ vững nội tâm, an trú, tĩnh chỉ, không khiến được chuyên nhất và định”, thì này A-nan, nên biết vị ấy tự làm cho mình rất phiền nhọc. Này A-nan, thế nào là Tỳ-kheo giữ vững nội tâm, an trú, tĩnh chỉ, khiến được chuyên nhất và định? Tỳ-kheo đối với thân này có hỷ lạc do ly dục phát sanh, thấm ướt khắp tất cả, thấm nhuần một cách phổ biến sung mãn; hỷ lạc do ly dục sanh không chỗ nào không biến mãn. Này A-nan, cũng như một người tắm gội, bỏ bột tắm trong đồ đựng rồi đổ nước vào, khuấy rất đều cho nổi bọt lên, thấm ướt, thấm nhuần khắp tất cả, phổ biến sung mãn, trong ngoài kín đáo, không có chỗ nào rỉ ra. Cũng vậy, này A-nan, Tỳ-kheo nơi thân này có hỷ lạc do ly dục phát sanh, thấm ướt khắp tất cả, thấm ướt một cách phổ biến sung mãn; hỷ lạc do ly dục sanh không có chỗ nào không biến mãn.
Này A-nan, như vậy, Tỳ-kheo giữ vững nội tâm an trú, tĩnh chỉ, khiến cho chuyên nhất và định rồi, hãy suy niệm về nội không. Vị ấy sau khi suy niệm về nội không rồi, tâm bèn di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không giải thoát đối với nội không; Tỳ-kheo ấy hãy suy niệm về ngoại không.
Vị ấy sau khi suy niệm về ngoại không rồi, tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không giải thoát đối với ngoại không. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo trong lúc quán, biết rằng mình đang suy niệm về ngoại không mà tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không được giải thoát đối với ngoại không, Tỳ-kheo ấy hãy suy nghĩ về nội ngoại không.
Vị ấy sau khi suy niệm về nội ngoại không rồi mà tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không giải thoát đối với nội ngoại không. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo trong lúc quán, biết rằng mình đang suy niệm về nội ngoại không mà tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không được giải thoát đối với nội ngoại không, Tỳ-kheo ấy hãy suy niệm về sự không di động.
Vị ấy sau khi suy niệm về sự không di động mà tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không giải thoát đối với sự bất di động. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào trong lúc quán sát, biết rằng mình đang suy niệm về sự không di động mà tâm di động, không hướng đến gần, không được lặng trong, không an trú, không giải thoát đối với sự không di động; Tỳ- kheo ấy có tâm như thế này hay thế khác, bằng định như thế này hay thế khác mà điều phục rồi lại điều phục, tu tập rồi lại tu tập, nhu nhuyến rồi lại nhu nhuyến, rất hân hoan trong sự nhu hòa, rất tịnh lạc trong sự viễn ly. Nếu vị ấy có tâm như thế này hay thế khác, bằng định như thế này hay thế khác mà điều phục rồi lại điều phục, tu tập rồi lại tu tập, nhu nhuyến rồi lại nhu nhuyến, rất hân hoan trong sự nhu hòa, rất tịnh lạc trong sự viễn ly rồi, hãy bằng nội không mà thành tựu an trú. Vị ấy sau khi nội không thành tựu, an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với nội không. Này A-nan, Tỳ-kheo trong lúc quán, biết nội không thành tựu, an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, được giải thoát đối với nội không; đó là chánh tri.
Này A-nan, Tỳ-kheo hãy bằng ngoại không thành tựu an trú. Vị ấy sau khi bằng ngoại không thành tựu an trú thì tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với ngoại không. Này A-nan, như vậy, Tỳ-kheo trong lúc quán, biết ngoại không thành tựu an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với ngoại không; đó là chánh tri.
Này A-nan, Tỳ-kheo hãy bằng nội ngoại không thành tựu an trú. Vị ấy sau khi bằng nội ngoại không thành tựu an trú thì tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với nội ngoại không. Này A-nan, như vậy, Tỳ-kheo trong lúc quán, biết nội ngoại không thành tựu an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với nội ngoại không; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, hãy bằng bất di động thành tựu an trú. Vị ấy sau khi bằng bất di động thành tựu an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với bất di động. Này A-nan, như vậy, Tỳ-kheo trong lúc quán, biết bất di động thành tựu an trú, tâm không di động, hướng đến gần, được lặng trong, an trú, giải thoát đối với bất di động; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy với tâm an trú trên trú xứ này, nếu muốn kinh hành, Tỳ-kheo ấy từ thiền thất đi ra, đi kinh hành trên khoảng đất trống, trong bóng mát của thiền thất, các căn hướng vào trong tâm, không hướng ra ngoài, lấy phía sau tác ý làm phía trước. Sau khi kinh hành như vậy rồi, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, các ác, bất thiện pháp; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy với tâm an trú trong trú xứ này, nếu muốn tọa định, Tỳ-kheo ấy rời khỏi chỗ kinh hành, đến cuối con đường kinh hành, trải ni-sư-đàn, ngồi kiết-già. Sau khi ngồi vững vàng như vậy rồi, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, các ác pháp bất thiện; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy với tâm an trú trong trú xứ này, nếu muốn có suy niệm, Tỳ-kheo ấy đối với ba sự suy niệm về ác, bất thiện này là niệm dục, niệm nhuế và niệm hại, đừng suy niệm đến ba suy niệm ác, bất thiện ấy; đối với ba suy niệm thiện này là niệm vô dục, niệm vô nhuế và niệm vô hại, hãy suy niệm trên ba suy niệm thiện ấy. Sau khi suy niệm như vậy rồi, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, các ác, bất thiện pháp; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy với tâm an trú trong trú xứ này, nếu muốn luận bàn, Tỳ-kheo ấy luận bàn những gì không phải là Thánh luận, không tương ưng với lợi ích cứu cánh, tức là luận bàn về những vấn đề vua chúa, đạo tặc, đấu tranh, ẩm thực, áo chăn, đàn bà, đồng nữ, dâm nữ, thế gian, tà đạo, trong biển; vị ấy không bàn luận các loại súc sanh luận như vậy. Nếu có những vấn đề thuộc Thánh luận, tương ưng với cứu cánh, khiến tâm nhu hòa, không có những sự che đậy, tức là vấn đề thí, giới, định, giải thoát, giải thoát tri kiến, tiệm giảm, không tụ hội, thiểu dục, tri túc, vô dục, đoạn diệt, tĩnh tọa, duyên khởi. Sau khi luận bàn những vấn đề mà Sa-môn luận bàn như vậy rồi, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, các ác, bất thiện pháp; đó gọi là chánh tri.
Lại nữa, này A-nan, có năm diệu dục, khả lạc, khả ý, khả niệm, sắc ái lạc tương ưng với dục; đó là sắc được biết bởi mắt, tiếng được biết bởi tai, hương được biết bởi mũi, vị được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân. Tỳ-kheo với tâm chuyên chú, quán năm diệu dục này, tùy theo diệu dục ấy mà có hành ấy trong tâm. Vì sao vậy? Không trước, không sau, năm diệu dục này tùy theo diệu dục nào mà có hành ấy trong tâm. Này A-nan, Tỳ-kheo trong lúc quán, biết năm diệu dục này tùy theo diệu dục nào mà có hành ấy trong tâm. Tỳ-kheo ấy với diệu dục này hay diệu dục kia, quán là vô thường, quán suy hao, quán vô dục, quán đoạn, quán diệt, quán xả ly. Nếu năm diệu dục này có dục, bị nhiễm dục, chúng tức thì bị tiêu diệt. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo khi quán như vậy, biết năm diệu dục này có dục và bị nhiễm dục, chúng đã bị đoạn trừ rồi; đó gọi là chánh tri.
Lại nữa, này A-nan, có năm thạnh ấm, sắc thạnh ấm, thọ, tưởng, hành, thức thạnh ấm. Tỳ-kheo như vậy mà quán sát sự hưng suy, quán sát rằng: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc; đây là thọ, tưởng, hành và thức; đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự diệt tận của thức. Nếu năm thạnh ấm này có ngã mạn, nó liền bị tiêu diệt. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo khi quán như vậy, biết trong năm thạnh ấm, ngã mạn đã bị diệt rồi; đó gọi là chánh tri.
Này A-nan, pháp này tuyệt đối khả ý, tuyệt đối khả lạc, tuyệt đối ý niệm, vô lậu, vô thủ, mà không đến gần được, ác không thể đến gần được; các ác pháp bất thiện ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, là phiền nhiệt, khổ báo, là nhân của sanh, già, bệnh, chết, cũng không thể đến gần được; tức là thành tựu sự không phóng dật này. Vì sao vậy? Nhân không phóng dật mà Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác chứng đắc giác ngộ; nhân gốc rễ không phóng dật mà phát sanh vô lượng thiện pháp, cho đến các trợ đạo phẩm. Cho nên, này A-nan, thầy phải học như vầy: “Ta cũng thành tựu nơi sự không phóng dật.” Hãy học như vậy!
Này A-nan, do nghĩa lợi nào mà một tín đệ tử đi theo Thế Tôn và phụng sự cho đến trọn đời?
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
– Thế Tôn là Pháp bổn, Thế Tôn là Pháp Chủ, pháp do Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thuyết giảng điều đó! Con nay sau khi nghe xong sẽ được biết rộng ý nghĩa ấy.
Đức Phật bèn nói:
– Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm, Ta sẽ khéo phân biệt đầy đủ cho thầy nghe!
Tôn giả A-nan vâng lời lắng nghe.
Đức Phật nói:
– Này A-nan, không phải chỉ vì Chánh kinh, Ca vịnh, Ký thuyết mà một tín đệ tử đi theo Thế Tôn để phụng sự cho đến trọn đời. Nhưng này A-nan, hoặc từ lâu vị ấy đã từng nghe pháp này, tụng tập đến cả ngàn lần, chuyên ý tư duy quán sát, thấy rõ, thấu triệt sâu xa. Nếu vấn đề này là Thánh luận, tương ưng với cứu cánh, khiến tâm nhu hòa, không có những che lấp, tức các vấn đề bố thí, giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, tiệm giảm, không tụ hội, thiểu dục, tri túc, vô dục, đoạn diệt, tĩnh tọa, duyên khởi; những vấn đề mà Sa-môn luận bàn như vậy, được dễ dàng chứ không khó; do ý nghĩa này mà một tín đệ tử đi theo Thế Tôn để phụng sự cho đến trọn đời. Này A-nan, như vậy là phiền lụy cho Tôn sư, phiền lụy cho đệ tử, phiền lụy cho các vị đồng Phạm hạnh.
Này A-nan, thế nào là phiền lụy cho Tôn sư? Ở đây, một vị Tôn sư xuất thế có sách lự tư duy, an trú nơi chỗ sách lự tư duy mà quán sát các loại phàm nhân có biện tài; vị ấy đi đến nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, lánh xa, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoặc sống tại nơi đó mà học sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng tâm, sống an lạc ngay trong hiện tại. Vị ấy sau khi học sự viễn ly, tinh cần, sống an ổn, khoái lạc rồi, theo các đệ tử trở về với các Phạm chí, cư sĩ, phong ấp, quốc nhơn. Vị ấy sau khi theo đệ tử trở về với các Phạm chí, cư sĩ, phong ấp, quốc nhơn, bèn tự cao mà trở về nhà. Như vậy là làm phiền lụy cho Tôn sư và cũng là pháp ác, bất thiện, ô uế, là gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, nhân của phiền nhiệt, khổ báo, sanh, già, bệnh, chết; đó là phiền lụy cho Tôn sư.
Này A-nan, thế nào là phiền lụy cho đệ tử? Đệ tử của vị Tôn sư ấy học sự viễn ly của vị ấy; vị ấy sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoặc sống tại nơi đó mà học sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng tâm, sống an lạc ngay trong hiện tại. Vị ấy sau khi học sự viễn ly, tinh cần, sống an ổn, khoái lạc rồi, bèn theo đệ tử trở về với các Phạm chí, cư sĩ, phong ấp, quốc nhơn. Vị ấy sau khi theo đệ tử trở về với các Phạm chí, cư sĩ, phong ấp, quốc nhơn rồi, bèn tự cao mà trở về nhà. Như vậy là làm phiền lụy cho đệ tử và cũng là pháp ác, bất thiện, ô uế, là gốc rễ của sự hữu trong tương lai, nhân của phiền nhiệt, khổ báo, sanh, già, bệnh, chết; đó là phiền lụy cho đệ tử.
Này A-nan, thế nào là phiền lụy cho các vị Phạm hạnh? Ở đây, đức Như Lai xuất thế, Ngài là bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, Ngài sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa.
Này A-nan, đức Như Lai vì nghĩa lợi nào mà sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa?
Tôn giả A-nan bạch đức Thế Tôn:
– Thế Tôn là Pháp bổn, Thế Tôn là Pháp Chủ, pháp do Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thuyết giảng điều ấy! Con nay sau khi nghe xong sẽ được biết rộng nghĩa ấy.
Đức Phật bèn nói:
– Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy tư niệm, Ta sẽ phân biệt đầy đủ cho thầy nghe!
Tôn giả A-nan vâng lời lắng nghe.
Đức Phật nói:
– Này A-nan, Như Lai không phải vì để được những gì chưa được, thu hoạch những gì chưa thu hoạch, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ mà sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa. Này A-nan, vì hai ý nghĩa mà Như Lai sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa: Một là sống an lạc ngay trong hiện tại cho chính mình; hai là từ mẫn đối với những người đời sau. Hoặc giả, đời sau người người noi theo Như Lai mà sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa. Này A-nan, chính vì nghĩa lợi này mà Như Lai sống trong rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa; hoặc sống ở nơi đó mà học sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng tâm, sống an lạc ngay trong hiện tại. Như Lai sau khi được học sự viễn ly, tinh cần, sống an ổn, khoái lạc rồi, cùng các vị Phạm hạnh mà trở về với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Như Lai sau khi cùng các vị Phạm hạnh trở về với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di rồi, không tự cao mà không về nhà. Này A-nan, nếu vị ấy chứng ngộ bất động tâm giải thoát thì Ta không nói vị ấy có sự chướng ngại. Nhưng nếu vị ấy chứng đắc bốn tăng thượng tâm, sống an lạc trong hiện tại, vốn do trước kia sống tinh cần, không phóng dật, thời ở đây hoặc giả có thể bị thối thất vì sự tụ hội đông đảo nhiều đệ tử.
Lại nữa, này A-nan, đệ tử của Tôn sư ấy noi theo Tôn sư mà sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, hoặc ở trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa; hoặc sống tại nơi đó mà học sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng tâm, sống an lạc ngay trong hiện tại. Vị ấy sau khi học sự viễn ly, tinh cần, sống an ổn, khoái lạc rồi, theo các vị Phạm hạnh mà trở về với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Vị ấy sau khi theo các vị Phạm hạnh trở về với các Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di rồi, bèn tự cao mà trở về nhà. Như vậy là phiền lụy cho các vị Phạm hạnh và cũng là các pháp ác, bất thiện, là gốc rễ của sự hữu trong tương lai, nhân của phiền nhiệt, khổ báo, sanh, già, bệnh, chết; đó gọi là phiền lụy cho các vị Phạm hạnh.
Này A-nan, trong sự phiền lụy Tôn sư và đệ tử, sự phiền lụy cho các vị Phạm hạnh rất là bất khả, không khả lạc, không khả ái, rất là không khả ái, khả niệm. Cho nên này A-nan, các thầy đối với Ta, hãy hành sự từ hòa, đừng gây sự oán hận!
Này A-nan, thế nào là đệ tử đối với Tôn sư mà gây sự oán hận, không hành sự từ hòa? Nếu Tôn sư thuyết pháp cho đệ tử là vì thương yêu, lo lắng, mong cầu thiện lợi và phước lành, mong cầu sự an ổn, khoái lạc cho đệ tử mà phát khởi tâm từ bi và nói rằng: “Đây là điều hữu ích, đây là sự an lạc, đây là sự hữu ích an lạc.” Nếu đệ tử ấy không cung kính, cũng không tùy thuận theo, không an trú nơi chánh trí, tâm không hướng đến pháp tùy pháp hành, không thọ lãnh Chánh pháp, trái phạm những điều Tôn sư dạy, không được định; đệ tử như vậy là đối với Tôn sư mà gây sự oán hận, không hành sự từ hòa. Này A-nan, thế nào là đệ tử đối với Tôn sư hành sự từ hòa, không gây sự oán hận? Nếu Tôn sư thuyết pháp cho đệ tử nghe, thương yêu, lo lắng, mong cầu thiện lợi và an lành, mong cầu sự an ổn, khoái lạc cho đệ tử mà phát khởi tâm từ bi và nói rằng: “Đây là điều hữu ích, đây là sự an lạc, đây là sự hữu ích an lạc.” Nếu đệ tử thuận hành theo, an lập nơi chánh trí, tâm quy hướng đến pháp tùy pháp hành, thọ lãnh Chánh pháp, không trái phạm lời giáo huấn của Tôn sư, có thể được định; vị đệ tử như thế là đối với Tôn sư mà hành sự từ hòa, không gây sự oán hận.
Cho nên này A-nan, các thầy đối với Ta, hãy hành sự từ hòa, đừng gây sự oán hận. Vì sao vậy? Này A-nan, Ta không nói như vầy: “Như người thợ gốm làm đồ gốm.” Nhưng này A-nan, Ta nói: “Nghiêm khắc, khắc khổ.” Cái gì chắc thật, cái ấy đứng vững.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.