Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

190. KINH TIỂU KHÔNG
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, tại Đông Viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan vào lúc xế trưa, từ thiền tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng sang một bên và bạch:

– Bạch Thế Tôn, một thời, Thế Tôn du hành giữa những người họ Thích, trong thành tên là Thích đô ấp. Lúc ấy, con được nghe Thế Tôn nói nghĩa như vầy: “Này A-nan, Ta phần nhiều an trú nơi Không!” Bạch Thế Tôn, có phải là con biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ không?

Bấy giờ, Thế Tôn đáp:

– Này A-nan, những lời của Ta nói, thầy thật sự biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ. Vì sao? Vì từ trước đến nay, Ta phần nhiều an trú nơi Không!

Này A-nan, như giảng đường Lộc Tử Mẫu này trống không, không có voi, ngựa, trâu, dê, tài vật, lúa, thóc, nô tỳ, nhưng có cái không trống không, đó là chỉ có chúng Tỳ-kheo. Cho nên, này A-nan, nếu những gì không có ở trong giảng đường này thì vì thế mà Ta thấy là không; nếu những thứ khác mà có thì Ta thấy thật sự là có. Này A-nan, đấy gọi là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Này A-nan, Tỳ-kheo nào nếu muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ-kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về xóm làng, đừng suy niệm đến ý tưởng về người, mà hãy thường suy niệm đến một ý tưởng thuần nhất về rừng vắng. Vị ấy nhận biết như vầy: “Trống không ý tưởng về xóm làng, trống không ý tưởng về người; nhưng có một cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về rừng vắng.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về xóm làng thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về người thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng thuần nhất về rừng vắng.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính do đó mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ- kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về người, đừng suy niệm đến ý tưởng về rừng vắng, mà hãy thường suy niệm đến ý tưởng thuần nhất về đất. Tỳ-kheo ấy nếu thấy đất này có cao, có thấp, có ổ rắn, có bụi gai, có cát, có đá, núi lởm chởm, sông sâu thì chớ có suy niệm đến; nếu thấy đất này bằng phẳng như lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng thì hãy thường suy niệm đến. Này A-nan, ví như da trâu, lấy một trăm cây đinh mà căng ra; sau khi căng ra thì rất thẳng, không nhăn, không rút lại. Nếu thấy chỗ đất này có cao, có thấp, có ổ rắn, có bụi gai, có cát, có đá, có lởm chởm, sông sâu thì chớ có suy niệm đến; nếu thấy chỗ đất này bằng phẳng như lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng thì hãy thường suy niệm đến. Vị ấy biết như vậy, biết rằng: “Trống không ý tưởng về người, trống không về ý tưởng rừng vắng; nhưng có một cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về đất.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về người thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về rừng vắng thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng thuần nhất về đất.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính do đó mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ-kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về rừng vắng, đừng suy niệm đến ý tưởng về đất, mà hãy thường suy niệm đến ý tưởng thuần nhất về Vô lượng không xứ. Vị ấy nhận biết như vầy: “Trống không ý tưởng về rừng vắng, trống không ý tưởng về đất; nhưng có một cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về Vô lượng không xứ.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về rừng vắng thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về đất thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng thuần nhất về Vô lượng không xứ.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính do đó mà vị ấy thấy trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ-kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về đất, đừng suy niệm đến ý tưởng về Vô lượng không xứ, mà hãy thường suy niệm đến ý tưởng thuần nhất về Vô lượng thức xứ. Vị ấy nhận biết như vầy: “Trống không ý tưởng về đất, trống không về ý tưởng Vô lượng không xứ; nhưng có một cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về Vô lượng thức xứ.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về đất thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về Vô lượng không xứ thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng thuần nhất về Vô lượng thức xứ.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có một cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ- kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về Vô lượng không xứ, đừng suy niệm về

Vô lượng thức xứ, mà hãy thường suy niệm đến ý tưởng thuần nhất về Vô sở hữu xứ. Vị ấy nhận biết như vầy: “Trống không ý tưởng về Vô lượng không xứ, trống không ý tưởng về Vô lượng thức xứ; nhưng có một cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về Vô sở hữu xứ.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về Vô lượng không xứ thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về Vô lượng thức xứ thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng về Vô sở hữu xứ.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn an trú nhiều trong tánh không, Tỳ- kheo ấy đừng suy niệm đến ý tưởng về Vô lượng thức xứ, đừng suy niệm đến ý tưởng về Vô sở hữu xứ, mà hãy thường suy niệm thuần nhất về Vô tưởng tâm định. Vị ấy nhận biết như vầy: “Trống không ý tưởng về Vô lượng thức xứ, trống không ý tưởng về Vô sở hữu xứ; nhưng có cái không trống không, đó là chỉ có ý tưởng thuần nhất về Vô tưởng tâm định.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về Vô lượng thức xứ thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do ý tưởng về Vô sở hữu xứ thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do ý tưởng thuần nhất về Vô tưởng tâm định.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo.

Vị ấy lại suy nghĩ như vầy: “Vô tưởng tâm định mà ta đã có đây, vốn là sở hành, vốn là sở tư. Nếu vốn là sở hành, vốn là sở tư thì ta không ái lạc nó, không mong cầu nó, không nên an trú trên nó.” Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu; giải thoát rồi thì biết là mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy biết như vầy: “Trống không dục lậu, trống không hữu lậu, trống không vô minh lậu; nhưng có cái không trống không, đó là chỉ có thân này của ta với sáu xứ cho mạng tồn tại.” Vị ấy biết rằng: “Nếu có sự phiền chán do dục lậu thì ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền chán do hữu lậu và vô minh lậu thì ta cũng không có sự ấy. Ở đây, chỉ có sự phiền chán do nơi thân này của ta và sáu xứ cho mạng tồn tại.” Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không; nếu trong đó còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là an trú chân thật tánh không, không điên đảo. Đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.

Này A-nan, trong quá khứ, nếu có các đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, các vị ấy đều an trú chân thật tánh không, không điên đảo này, đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.

Này A-nan, trong vị lai, nếu có các đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, các vị ấy đều an trú chân thật tánh không, không điên đảo này, đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.

Này A-nan, trong hiện tại, Ta là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Ta cũng an trú chân thật tánh không, không điên đảo này, đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.

Cho nên, này A-nan, hãy học như vậy!

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.