Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Câu-lâu-sấu, đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm- câu-lâu.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Có một con đường khiến chúng sanh được thanh tịnh, xả bỏ ưu sầu, dứt hết thống khổ, chứng được như pháp. Đó là Thánh chánh định, có tập, có trợ và cũng có cụ, bao gồm bảy chi. Thế nào là ở nơi Thánh chánh định nói tập, nói trợ và nói cụ bao gồm bảy chi? Đó là chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm. Nếu do bảy chi này mà có tập, có trợ và có cụ khéo hướng đến, tâm được chuyên nhất, đó gọi là Thánh chánh định có tập, có trợ và có cụ. Vì sao vậy? Vì chánh kiến sanh ra chánh chí; chánh chí sanh ra chánh ngữ; chánh ngữ sanh ra chánh nghiệp; chánh nghiệp sanh ra chánh mạng; chánh mạng sanh ra chánh phương tiện; chánh phương tiện sanh ra chánh niệm; nhờ có chánh niệm sanh ra chánh định. Hiền thánh đệ tử tâm được chánh định như vậy lập tức dứt sạch dâm, nộ, si. Hiền thánh đệ tử chánh tâm giải thoát như thế lập tức biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Trong các chi ấy, chánh kiến đứng ngay hàng đầu. Nếu thấy tà kiến là tà kiến thì đó gọi là chánh kiến; nếu thấy chánh kiến là chánh kiến thì đó cũng gọi là chánh kiến.
Thế nào là tà kiến? Đó là cho rằng không có bố thí, không có trai tự, không có chú thuyết, không có thiện nghiệp, ác nghiệp, không có thiện báo, ác báo, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ; trên đời này không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, trong đời này hay đời sau mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú. Như vậy gọi là tà kiến.
Thế nào gọi là chánh kiến? Đó là thấy rằng có bố thí, có trai tự, có chú thuyết, có thiện nghiệp, ác nghiệp, thiện báo, ác báo, có đời này, đời sau, có cha, có mẹ; trên đời có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, đời này hay đời sau mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, tựu thành an trú. Như vậy gọi là chánh kiến. Đó gọi là thấy tà kiến là tà kiến thì đó gọi là chánh kiến; thấy chánh kiến là chánh kiến thì đó cũng gọi là chánh kiến.
Khi biết như thế rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà kiến, thành tựu chánh kiến, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm về sự đoạn trừ nơi tà kiến, thành tựu chánh kiến, đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi đi theo chánh kiến, do phương tiện của kiến, vì thế cho nên bảo là chánh kiến đứng ở hàng đầu.
Nếu thấy tà chí là tà chí thì đó gọi là chánh chí; nếu thấy chánh chí là chánh chí thì đó cũng gọi là chánh chí.
Thế nào gọi là tà chí? Đó là niệm dục, niệm nhuế, niệm hại, được gọi là tà chí. Thế nào gọi là chánh chí? Đó là không niệm dục, không niệm nhuế, không niệm hại, được gọi là chánh chí. Đó gọi là thấy tà chí là tà chí thì đó gọi là chánh chí; thấy chánh chí là chánh chí thì đó cũng gọi là chánh chí.
Khi biết như thế rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà chí, thành tựu chánh chí, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn trừ nơi tà chí, thành tựu chánh chí, đó gọi là chánh niệm. Tất cả ba chi này đi theo chánh chí, do phương tiện của kiến, vì thế cho nên bảo là chánh kiến đứng ở hàng đầu.
Nếu thấy tà ngữ là tà ngữ thì đó gọi là chánh ngữ; nếu thấy chánh ngữ là chánh ngữ thì đó cũng gọi là chánh ngữ.
Thế nào gọi là tà ngữ? Nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, đó gọi là tà ngữ. Thế nào là chánh ngữ? Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không nói lời thêu dệt, đó gọi là chánh ngữ. Đó gọi là thấy tà ngữ là tà ngữ thì đó gọi là chánh ngữ; thấy chánh ngữ là chánh ngữ thì đó cũng gọi là chánh ngữ.
Khi biết như vậy rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ, đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo chánh ngữ, do phương tiện của kiến, vì thế cho nên bảo là chánh kiến đứng ở hàng đầu.
Nếu thấy tà nghiệp là tà nghiệp thì đó gọi là chánh nghiệp; nếu thấy chánh nghiệp là chánh nghiệp thì đó cũng gọi là chánh nghiệp.
Thế nào gọi là tà nghiệp? Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, đó gọi là tà nghiệp. Thế nào gọi là chánh nghiệp? Lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, đó gọi là chánh nghiệp. Đó gọi là thấy tà nghiệp là tà nghiệp thì đó gọi là chánh nghiệp; thấy chánh nghiệp là chánh nghiệp thì đó cũng gọi là chánh nghiệp.
Khi biết như thế rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp, đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo chánh nghiệp, do kiến làm phương tiện, vì thế cho nên bảo là chánh kiến đứng ở hàng đầu.
Nếu thấy tà mạng là tà mạng thì đó gọi là chánh mạng; nếu thấy chánh mạng là chánh mạng thì đó cũng gọi là chánh mạng.
Thế nào gọi là tà mạng? Nếu có mong cầu mà không biết đủ, dùng các loại chú thuật súc sanh, sống theo lối tà mạng, sống không đúng pháp cầu y thực, giường chõng, thuốc thang và các nhu yếu sinh sống; dùng phi pháp như thế gọi là tà mạng. Thế nào là chánh mạng? Nếu sự mong cầu biết đủ, không dùng các loại chú thuật súc sanh, không sống theo lối tà mạng, sống đúng pháp cầu y thực, giường chõng, thuốc thang và các nhu yếu sinh sống; dùng đúng pháp như thế gọi là chánh mạng. Đó gọi là thấy tà mạng là tà mạng thì đó gọi là chánh mạng; thấy chánh mạng là chánh mạng thì đó cũng gọi là chánh mạng.
Khi biết như thế rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm đoạn trừ sự tà mạng, thành tựu chánh mạng, đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo chánh mạng, do kiến làm phương tiện, vì thế cho nên bảo là chánh kiến đứng ở hàng đầu.
Thế nào gọi là chánh phương tiện? Vị Tỳ-kheo đối với ác pháp đã sanh, vì để đoạn trừ nên phát khởi ý dục, tìm phương tiện, tinh cần, sách lệ tâm mà tiêu diệt; đối với ác pháp chưa sanh, vì để nó không sanh nên phát khởi ý dục, tìm phương tiện, tinh cần, sách lệ tâm mà tiêu diệt; đối với thiện pháp chưa sanh, vì để sanh nên phát khởi ý dục, tìm phương tiện, tinh cần, sách lệ tâm mà tiêu diệt; đối với thiện pháp đã sanh, vì để tồn tại không mất, không lui sụt, để tăng trưởng phát triển, tu tập đầy đủ, nên phát khởi ý dục, tìm phương tiện, tinh cần, sách lệ mà tâm tiêu diệt. Đó gọi là chánh phương tiện.
Thế nào gọi là chánh niệm? Tỳ-kheo quán nội thân như thân, cho đến quán thọ, tâm, quán pháp như pháp. Đó gọi là chánh niệm.
Thế nào gọi là chánh định? Tỳ-kheo ly dục, ly pháp ác, bất thiện, cho đến chứng Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Đó gọi là chánh định.
Thế nào gọi là chánh giải thoát? Tỳ-kheo tâm giải thoát dục, tâm giải thoát nhuế, si. Đó gọi là chánh giải thoát.
Thế nào gọi là chánh trí? Tỳ-kheo biết tâm giải thoát dục, tâm giải thoát nhuế, si. Đó gọi là chánh trí.
Đó là bậc Hữu học thành tựu tám chi, Lậu tận A-la-hán thành tựu mười chi.
Thế nào là Hữu học thành tựu tám chi? Đó là học từ chánh kiến cho đến chánh định. Đó là Hữu học thành tựu tám chi.
Thế nào là Lậu tận A-la-hán thành tựu mười chi? Đó là Vô học chánh kiến cho đến Vô học chánh trí. Đó là Lậu tận A-la-hán thành tựu mười chi. Vì sao như vậy? Vì chánh kiến là đoạn trừ tà kiến. Nếu nhân tà kiến mà sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, vị ấy cũng đoạn trừ nó. Nếu nhân chánh kiến sanh ra vô lượng pháp thiện, vị ấy tu tập được sung mãn. Cho đến chánh trí đoạn trừ tà trí. Nếu nhân tà trí mà sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, vị ấy cũng đoạn trừ nó. Nếu nhân chánh trí mà sanh vô lượng pháp thiện, vị ấy tu tập để được sung mãn.
Đó là hai mươi phẩm thiện và hai mươi phẩm bất thiện. Đó là tuyên thuyết bốn mươi đại pháp phẩm được chuyển vận nơi Phạm luân mà không một ai có thể chặn đứng được, dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác. Đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân ấy, không một ai có thể chặn đứng dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác; mà nếu có Sa-môn, Phạm chí nào phi bác, vị ấy đối với như pháp có mười trường hợp đáng bị chỉ trích. Những gì là mười?
Hoặc chê bai chánh kiến, khen ngợi tà kiến. Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào có tà kiến mà hoặc cúng dường vị ấy, hoặc tán thán vị ấy; đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai có thể chặn đứng dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác ấy, mà nếu có Sa-môn, Phạm chí nào phi bác, vị ấy đối với như pháp, đây là trường hợp thứ nhất đáng bị chỉ trích.
Hoặc chê bai cho đến chánh trí, khen ngợi tà trí. Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào có tà trí mà hoặc cúng dường vị ấy, hoặc tán thán vị ấy; đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai có thể chặn đứng dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác ấy, mà có Sa-môn, Phạm chí nào phi bác, vị ấy đối với như pháp, đây là trường hợp thứ mười đáng bị chỉ trích.
Đó gọi là đối với như pháp có mười trường hợp đáng bị chỉ trích, nếu có Sa- môn, Phạm chí nào đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết, được chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai có thể chặn đứng dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác mà phi bác.
Lại có những Sa-môn, Phạm chí khác sống ngồi chồm hổm, thuyết giảng sự ngồi chồm hổm, sống vô sở hữu, thuyết giảng vô sở hữu, thuyết vô nhân, thuyết vô tác, thuyết vô nghiệp, nghĩa là đối với thiện, ác được tạo tác bởi người này hay người kia mà chủ trương đoạn tuyệt, phá hoại ở kia hay ở đây; những người ấy đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai có thể chặn đứng dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác, những người ấy cũng có sự chỉ trích, lo lắng, sợ hãi.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.