Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
– Nếu có Tỳ-kheo nào đến trước các thầy nói lên trí mà họ đã chứng đắc, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Các thầy nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy nên hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói năm thạnh ấm: Sắc thạnh ấm, thọ, tưởng, hành và thức thạnh ấm. Này Hiền giả, biết và thấy năm thạnh ấm này như thế nào để được biết là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm giải thoát?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp lại như vầy:
“Này chư Hiền, sắc thạnh ấm là pháp không hiệu quả, trống rỗng, không đáng ham muốn, không hằng hữu, cũng không thể nương tựa, là pháp biến dịch; tôi biết như vậy. Nếu đối với sắc thạnh ấm mà có tham dục, có ô nhiễm, có đắm trước, có trói buộc thì đối với sự đắm trước, sự trói buộc, sự sai sử này, chúng bị tận trừ, ly dục, diệt, tịch tĩnh; do đó nên biết là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm giải thoát. Cũng như vậy, thọ, tưởng, hành và thức thạnh ấm là pháp không hiệu quả, trống rỗng, là không đáng ham muốn, không hằng hữu, cũng không thể nương tựa, là pháp biến dịch; tôi biết như vậy. Nếu đối với thức thạnh ấm mà có tham dục, có ô nhiễm, có đắm trước, có trói buộc thì đối với sự đắm trước, sự trói buộc, sự sai sử này, chúng bị tận trừ, ly dục, diệt, tịch tĩnh; do đó nên biết là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm giải thoát. Này chư Hiền, đối với năm thạnh ấm, tôi biết như vậy, thấy như vậy, nên biết là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững thì nên đáp như vậy. Các thầy sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy hỏi Tỳ- kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, đức Thế Tôn đã nói có bốn loại thực, chúng sanh nhờ đó mà được tồn tại và được trưởng dưỡng. Những gì là bốn? Một là đoàn thực, có thô và tế; hai là xúc thực; ba là ý niệm thực và bốn là thức thực. Này Hiền giả, biết và thấy bốn loại thực này như thế nào để rõ biết là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vầy:
“Này chư Hiền, đối với đoàn thực, ý tôi không coi trọng, không coi rẻ, không đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, được giải thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không còn điên đảo, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Cũng như vậy, đối với xúc thực, ý niệm thực, thức thực, ý tôi không coi trọng, không coi rẻ, không đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, đã giải thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không còn điên đảo, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Này chư Hiền, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy, nên đối với bốn loại thực này, rõ biết là không còn chấp thủ, đã diệt sạch các lậu, tâm được giải thoát.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vậy. Các thầy nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy nên hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, đức Thế Tôn đã nói bốn loại tuyên thuyết. Những gì là bốn? Thấy thì nói là thấy, nghe thì nói là nghe, nhận thấy thì nói là nhận thấy, biết rõ thì nói là biết rõ. Này Hiền giả, biết và thấy bốn loại tuyên thuyết này như thế nào để rõ được mình không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vầy:
“Này chư Hiền, đối với sự thấy thì nói là thấy, tôi không coi trọng, không coi rẻ, không đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, đã giải thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không điên đảo và biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Cũng như vậy, nghe thì nói là nghe, nhận thấy thì nói là nhận thấy, biết rõ thì nói là biết rõ, không coi trọng, không coi rẻ, không đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, đã giải thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không điên đảo và biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với bốn loại tuyên thuyết này, tôi biết rõ mình không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và tự biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vậy. Các thầy khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, lại hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, đức Thế Tôn đã nói sáu pháp nội xứ: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý xứ. Này Hiền giả, biết và thấy sáu nội xứ này như thế nào để biết rõ là đã không còn chấp thủ, dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và tự biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vầy:
“Này chư Hiền, đối với mắt và nhãn thức, nhãn thức biết pháp, cả hai, tôi biết rõ hai pháp ấy. Này chư Hiền, nếu mắt và nhãn thức, nhãn thức biết pháp, ái lạc đã dứt sạch; do nó bị dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh mà biết rõ là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát. Cũng như vậy, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và ý thức, ý thức biết pháp, cả hai, tôi đã biết rõ hai pháp ấy. Đã biết rõ hai pháp ấy rồi, này chư Hiền, nếu ý và ý thức, ý thức biết pháp, ái lạc đã dứt sạch; do nó bị dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh mà biết rõ là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội xứ được biết rõ là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vậy. Các thầy sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy nên hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, đức Thế Tôn nói về lục giới như địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới. Này Hiền giả, biết và thấy lục giới này như thế nào để rõ biết mình không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vầy:
“Này chư Hiền, tôi không thấy rằng địa giới là sở thuộc của tôi; tôi không phải là sở thuộc của địa giới; địa giới chẳng phải là ngã. Nhưng hai thọ nương địa giới mà trú và các kiết sử dựa vào đó mà sanh, chúng bị dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh; do đó mà biết rõ là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát. Cũng như vậy, thủy, hỏa, phong, không và thức giới chẳng phải sở thuộc của tôi; tôi không phải là sở thuộc của thức giới; thức giới chẳng phải là ngã. Nhưng hai thọ nương nơi thức mà trú và các kiết sử dựa vào đó mà sanh, chúng bị dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh; do đó mà biết rõ là không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy đối với lục giới ấy, biết mình không còn chấp thủ, đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vậy. Các thầy sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành.
Sau khi khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy nên hỏi vị Tỳ-kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, biết và thấy bên trong thân này cùng với thức và tất cả các tướng bên ngoài như thế nào để có đoạn biến tri về tự ngã, về tự ngã như là tác giả và mạn kiết sử nhổ tuyệt cội gốc của chúng, không còn tái sanh nữa?”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vầy:
“Này chư Hiền, thuở xưa, khi tôi chưa xuất gia học đạo, đã nhàm chán sự sanh, già, bệnh, chết, khóc than, khốn khổ, sầu muộn, bi ai; tôi muốn đoạn trừ khối khổ đau to lớn này. Này chư Hiền, sau khi đã nhàm chán, ghê sợ, tôi quán sát: ‘Tại gia là đời sống hẹp hòi, là chốn trần lao; xuất gia học đạo là đời sống rộng rãi, bao la. Nay ta sống đời tại gia bị xiềng xích quấn chặt, không thể trọn đời tịnh tu Phạm hạnh. Vậy ta hãy vứt bỏ các tài sản nhỏ và lớn, từ giã thân tộc ít hay nhiều, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.’ Này chư Hiền, sau đó tôi vứt bỏ tài sản nhỏ và lớn, từ giã thân tộc ít hay nhiều, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Này chư Hiền, sau khi tôi xuất gia học đạo, từ bỏ của cải, họ hàng, rồi thọ lãnh cấm giới mà Tỳ-kheo phải tu tập, thủ hộ biệt giải thoát giới, tôi lại cẩn thận, thâu nhiếp các oai nghi lễ tiết, thấy lỗi nhỏ nhặt cũng thường ôm lòng lo sợ, nhớ kỹ điều cốt yếu đã học.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ sát sanh, xa lìa sát sanh, xả bỏ đao gậy, biết hổ thẹn, nuôi lòng từ bi, làm lợi ích cho tất cả cho đến loài côn trùng; đối với tâm sát sanh, tôi đã tịnh trừ.”
“Tôi từ bỏ lấy của không cho, đoạn trừ lấy của không cho, chỉ lấy của đã cho, thích của đã cho, thường thích bố thí, vui vẻ không luyến tiếc, không mong sự đáp lại; đối với tâm ưa lấy của không cho, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ sự phi Phạm hạnh, đoạn trừ phi Phạm hạnh, siêng năng tu Phạm hạnh, tinh tấn với diệu hạnh, thanh tịnh, không ô uế, từ bỏ dục vọng, dứt trừ tâm dục; đối với tâm phi Phạm hạnh, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ nói láo, đoạn trừ nói láo, nói điều chân thật, ưa điều chân thật, dựa trên sự thật không sai trái, tất cả lời nói của tôi đều đáng tin cậy, không lừa dối thế gian; đối với tâm nói láo, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai lưỡi, tu hành không nói hai lưỡi, không phá hoại người khác, không nghe lời người này đem nói với người kia để phá hoại người này, không nghe lời người kia đem nói với người này để phá hoại người kia, người ly gián tôi làm cho hòa hợp, người đã sống hòa hợp tôi làm cho họ hoan hỷ, không chia phe đảng, không thích phe đảng; đối với tâm nói hai lưỡi, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác; nếu có lời nói giọng điệu thô bỉ, lớn tiếng, nghịch tai, người nghe không ưa, không mến, khiến họ khổ não, không định tâm, tôi đoạn trừ lời nói như vậy; nếu có lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, thuận tai, thông cảm đến tâm, làm cho người nghe vui vẻ, mến chuộng, sung sướng, tiếng nói rõ ràng, không làm cho người khác sợ, trái lại họ được định tâm, tôi nói lời nói như vậy; đối với tâm nói lời thô ác, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ lời nói thêu dệt, tránh xa lời nói thêu dệt, nói đúng lúc, nói chân thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa nói về tịch tĩnh, hợp thời, hợp lý, khéo dạy, khéo la mắng; đối với tâm nói thêu dệt, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ buôn bán, tránh xa sự buôn bán, xả bỏ nghề cân lường và đấu hộc, cũng không nhận hàng hóa, không chèn ép người, không mong gian lận, không vì lợi nhỏ mà lấn lướt người; đối với tâm sinh hoạt buôn bán, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi đã từ bỏ sự nhận đàn bà góa, con gái thơ, tránh xa việc nhận đàn bà góa, con gái thơ; đối với tâm nhận đàn bà góa, con gái thơ, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận nô tỳ, tránh xa việc nhận nô tỳ; đối với tâm nhận nô tỳ, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận voi, ngựa, trâu, dê, tránh xa việc nhận voi, ngựa, trâu, dê; đối với tâm nhận voi, ngựa, trâu, dê, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận gà, heo, tránh xa việc nhận gà, heo; đối với tâm nhận gà, heo, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận ruộng, nương, hàng, quán, tránh xa việc nhận ruộng, nương, hàng, quán; đối với tâm nhận ruộng, nương, hàng, quán, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận lúa giống, lúa mạch, đậu, tránh xa việc nhận lúa giống, lúa mạch, đậu; đối với tâm nhận lúa giống, lúa mạch, đậu, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ rượu, tránh xa rượu; đối với tâm uống rượu, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ dùng giường cao, rộng lớn, tránh xa giường cao, rộng lớn; đối với tâm dùng giường cao, rộng lớn, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ trang sức vòng hoa, chuỗi ngọc, hương thoa, phấn sáp, tránh xa trang sức vòng hoa, chuỗi ngọc, hương thoa, phấn sáp; đối với tâm trang sức vòng hoa, chuỗi ngọc, hương thoa, phấn sáp, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ ca, múa, xướng, hát và đi xem nghe, tránh xa sự ca, múa, xướng, hát và đi xem nghe; đối với tâm ca, múa, xướng, hát và đi xem nghe, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ nhận vàng bạc, tránh xa nhận vàng bạc; đối với tâm nhận vàng bạc, tôi đã tịnh trừ. Này chư Hiền, tôi từ bỏ sự ăn quá ngọ, tránh xa sự ăn quá ngọ, ăn đúng ngọ, không ăn ban đêm, không ăn phi thời, học ăn đúng thời; đối với tâm ăn quá ngọ, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân này, lại tu hành sự tri túc, áo cốt để che thân, ăn cốt để nuôi thân. Tôi đến chỗ nào là mang theo y, bát, không có luyến tiếc. Ví như chim nhạn cùng với hai cánh bay liệng trong hư không, tôi cũng như vậy.”
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân này và rất tri túc, lại chế ngự các căn, thường tâm niệm khép kín các căn, niệm mong cầu sự minh đạt, thủ hộ niệm tâm mà được thành tựu, hằng tự khởi ý: Nếu mắt thấy sắc, không chấp thủ tướng, cũng không đắm vị của nó, vì (tránh) phẫn hận và não hại mà thủ hộ nhãn căn; trong tâm không sanh tham lam, buồn rầu và các pháp ác, bất thiện, vì hướng đến sự giải thoát mà thủ hộ nhãn căn. Cũng như vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý biết pháp, không chấp thủ tướng, cũng không đắm vị của nó, vì (tránh) phẫn hận và não hại mà thủ hộ ý căn; trong tâm không sanh tham lam, buồn rầu và các pháp ác, bất thiện, vì hướng đến sự giải thoát mà thủ hộ ý căn. Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân này và rất tri túc, thánh thủ hộ các căn, chân chánh biết sự ra vào, khéo quán sát các cử chỉ co, duỗi, cúi, ngước, nghi dung đĩnh đạc, khéo đắp Tăng-già-lê và mang y, bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, im lặng, tôi đều chân chánh nhận biết.”
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân này, rất tri túc và cũng thành tựu Thánh thủ hộ các căn, chân chánh biết sự ra vào; rồi sống riêng một mình tại nơi xa vắng, trong rừng vắng hoặc đến nơi gốc cây, nơi tĩnh mịch, vô sự, an nhàn, hoặc chỗ núi rừng, hang đá, đất trống, lùm cây, hoặc vào trong rừng, hoặc ở giữa gò mã. Này chư Hiền, tôi đã ở nơi rừng vắng hoặc dưới gốc cây, nơi yên tĩnh, trải tọa cụ ngồi kiết-già, thân ngay thẳng, chánh nguyện phản niệm vào trong, đoạn trừ tham lam, tâm không não hại; thấy của cải và dụng cụ sinh hoạt của người khác, không khởi lòng tham lam, muốn được về mình; đối với tâm tham lam, tôi đã tịnh trừ. Cũng như vậy, đối với tâm sân nhuế, thụy miên, trạo hối, đoạn nghi, độ hoặc; đối với các thiện pháp, tôi không còn do dự; đối với tâm nghi hoặc, tôi đã tịnh trừ.”
“Này chư Hiền, tôi đã đoạn trừ năm triền cái, chúng làm tâm ô uế, làm tuệ yếu kém; xa lìa dục, lìa pháp ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú.”
“Này chư Hiền, tôi đã được định tâm như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không phiền nhiệt, nhu nhuyến, an trú vững vàng, được bất động tâm, hướng đến chứng ngộ trí Lậu tận thông.”
“Này chư Hiền, tôi biết như thật rằng: ‘Đây là khổ’, biết như thật: ‘Đây là khổ tập’, biết như thật: ‘Đây là khổ diệt’ và biết như thật: ‘Đây là khổ diệt đạo’; biết như thật: ‘Đây là lậu’, ‘đây là lậu tập’, ‘đây là lậu diệt’ và ‘đây là lậu diệt đạo.’ Biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu; khi đã giải thoát, liền biết mình đã giải thoát và biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy đối với thân có thức bên trong và các tướng bên ngoài để có đoạn biến tri về tự ngã, tất cả của ta, ta và tự ngã như là tác giả và mạn kiết sử nhổ tuyệt gốc rễ của chúng, không còn tái sanh nữa.”
Vị Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và tự biết mình Phạm hạnh đã vững nên đáp như vậy. Các thầy sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành. Sau khi khen là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi, các thầy nên nói với vị Tỳ- kheo ấy như vầy:
“Này Hiền giả, khi Hiền giả vừa nói, chúng tôi đã đẹp lòng, đã hoan hỷ, nhưng chúng tôi muốn theo Hiền giả để tăng tiến càng tăng tiến, mong cầu trí tuệ và ứng đối biện tài, vì vậy chúng tôi hỏi Hiền giả, rồi lại hỏi nữa.”
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.