Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa đến Bạt-kỳ-sấu, trong rừng Ngưu Giác Sa-la, cùng với số đông các Tỳ-kheo Thượng tôn tri thức đại đệ tử như Tôn giả Xá-lợi-tử, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Ly-việt-đa, Tôn giả A-nan. Các Tỳ-kheo đại đệ tử là những vị Thượng tôn tri thức như vậy cũng cùng đi đến Bạt-kỳ-sấu, trong rừng Ngưu Giác Sa-la, ở gần bên tịnh thất lá của Phật.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật-đà, sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử. Tôn giả A-nan từ xa trông thấy các bậc Thượng tôn đã đi, liền bạch:
– Hiền giả Ly-việt-đa, nên biết các Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật-đà, sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử. Hiền giả Ly-việt-đa, bây giờ chúng ta có thể cùng với các bậc Thượng tôn đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử, hoặc giả có thể nhân cơ hội này mà được nghe pháp ít nhiều nơi Tôn giả Xá-lợi-tử.
Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Ly-việt-đa, Tôn giả A-nan, sau khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử. Tôn giả Xá-lợi-tử từ xa thấy các bậc Thượng tôn đã đến. Tôn giả Xá-lợi-tử nhân thấy các bậc Thượng tôn ấy nên nói:
– Kính chào Hiền giả A-nan! Kính chào Hiền giả A-nan! Kính chào Hiền giả A-nan! Người là thị giả của Thế Tôn, hiểu được ý nghĩa, thường được đức Thế Tôn và các bậc trí tuệ Phạm hạnh khen ngợi. Nay tôi có lời hỏi Hiền giả A-nan: Khả ái thay rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả A-nan, những hạng Tỳkheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả A-nan đáp:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo học rộng, nghe nhiều, nhớ mãi không quên, tích lũy sự nghe nhiều. Với những pháp đoạn đầu vi diệu, đoạn giữa vi diệu và đoạn cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; những pháp như vậy được vị ấy học rộng, nghe nhiều, tập luyện đến ngàn lần, chú ý tư duy, quán sát, thấy rõ, hiểu sâu. Vị ấy thuyết pháp gọn gàng, lưu loát, hoàn toàn tương ưng với mục đích đoạn trừ các kiết sử. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la này.
Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi:
– Hiền giả Ly-việt-đa, Hiền giả A-nan đã nói theo hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Ly-việt-đa: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Ly-việt-đa, hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả Ly-việt-đa đáp:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo ưa yên tọa, bên trong thực hành phương pháp chỉ tức, không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ yên tĩnh. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Xá-lợi-tử lại hỏi:
– Hiền giả A-na-luật-đà, Hiền giả Ly-việt-đa Tỳ-kheo đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả A-na-luật-đà: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả A-na-luật-đà, hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả A-na-luật-đà đáp:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo đạt được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, ở trong một ngàn thế giới, với một ít phương tiện, vị ấy trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, ví như người có mắt ở trên lầu cao nhìn xuống khu đất trống có một ngàn gò nổng, với một ít phương tiện, vị ấy trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, cũng vậy, nếu Tỳ-kheo có được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, ở trong một ngàn thế giới, với một ít phương tiện, vị ấy trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Xá-lợi-tử lại hỏi:
– Hiền giả Ca-chiên-diên, Hiền giả A-na-luật-đà Tỳ-kheo đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Ca-chiên-diên: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Ca-chiên-diên, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả Ca-chiên-diên đáp:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, ví như hai Tỳ-kheo pháp sư cùng bàn luận về nghĩa lý thâm áo của A-tỳ-đàm; những điều được hỏi đều được thấu hiểu tường tận, những lời giải đáp thì thông suốt, sự thuyết pháp thì lưu loát. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Xá-lợi-tử lại hỏi:
– Tôn giả Đại Ca-diếp, Hiền giả Ca-chiên-diên Tỳ-kheo đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Tôn giả Đại Ca-diếp: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Đại Ca-diếp, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả Đại Ca-diếp đáp:
– Hiền giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo tự mình vô sự, khen ngợi ở nơi vô sự; tự mình có thiểu dục, khen ngợi sự thiểu dục; tự mình tri túc, khen ngợi sự tri túc; tự mình thích sống cô độc viễn ly, khen ngợi sự thích sống cô độc viễn ly; tự mình tu hành tinh tấn, khen ngợi sự tu hành tinh tấn; tự mình lập chánh niệm, chánh trí, khen ngợi sự lập chánh niệm, chánh trí; tự mình đắc định, khen ngợi sự đắc định; tự mình có trí tuệ, khen ngợi sự có trí tuệ; tự mình các lậu đã sạch, khen ngợi các lậu đã sạch; tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Hiền giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Xá-lợi-tử lại hỏi:
– Hiền giả Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Mục-kiền-liên: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Mục-kiền-liên, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, được tự tại vô lượng như ý túc; thực hành vô lượng như ý túc, có thể biến một thành nhiều, hợp nhiều thành một, một ở vị trí của một, có thể biết, có thể thấy, xuyên qua vách đá như hư không, không ngăn ngại, ra vào trong đấy dễ như nước, đi trên nước như đi trên đất mà không bị chìm, bay lên không trung mà ngồi kiết-già như loài chim; ngay đối với mặt trăng và mặt trời có đại như ý túc, có đại phước hựu, có đại oai thần, vị ấy đưa tay sờ được, thân cao đến trời Phạm thiên. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hỏi:
– Tôn giả Xá-lợi-tử, tôi và các bậc Thượng tôn mỗi người đã tự nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Tôn giả Xá-lợi-tử: Khả ái thay rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Tôn giả Xá-lợi-tử, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?
Tôn giả Xá-lợi-tử đáp:
– Hiền giả Mục-kiền-liên, nếu có Tỳ-kheo tùy dụng tâm tự tại chứ không phải không tùy tâm; nếu muốn an trú định vào buổi sáng, vị ấy liền an trú định vào buổi sáng; nếu muốn an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều, vị ấy liền an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, ví như y phục của vua và các quan rất nhiều màu sắc rực rỡ; nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi sáng, liền lấy mặc vào; nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi trưa hay buổi chiều, liền lấy mặc vào. Hiền giả Mục-kiền-liên, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo nào tùy dụng tâm tự tại chứ không phải không tùy tâm; nếu muốn an trú định vào buổi sáng, vị ấy liền an trú định vào buổi sáng; nếu muốn an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều, vị ấy liền an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Tôn giả Xá-lợi-tử bảo:
– Hiền giả Mục-kiền-liên, tôi và chư Hiền mỗi người đã nói theo sự hiểu biết của mình. Hiền giả Mục-kiền-liên, chúng ta hãy cùng với chư Hiền đi đến chỗ Phật để biết trong những điều vừa thảo luận ấy, vị nào nói đúng.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Cadiếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Ly-việt-đa, Tôn giả A-nan, tất cả cùng đi đến chỗ Phật. Các Tôn giả đều cúi đầu lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên. Tôn giả A-nan cúi đầu lễ sát chân Phật rồi lui đứng một bên. Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, hôm nay có Hiền giả Mục-kiền-liên, Hiền giả Đại Ca-diếp, Hiền giả Ca-chiên-diên, Hiền giả A-na-luật-đà, Hiền giả Ly-việt-đa, Hiền giả A-nan, vào buổi sáng sớm tất cả đều đi đến chỗ con. Con thấy chư Hiền đến, nhân đó mới nói rằng: “Kính chào Hiền giả A-nan! Kính chào Hiền giả A-nan! Kính chào Hiền giả A-nan! Người là thị giả của Thế Tôn, hiểu được ý nghĩ của Thế Tôn, thường được Thế Tôn và các bậc trí tuệ Phạm hạnh khen ngợi.”
Lúc ấy, con hỏi Hiền giả A-nan rằng: “Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả A-nan, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Tôn giả A-nan đáp: “Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo học rộng, nghe nhiều, nhớ mãi không quên, tích lũy sự nghe nhiều. Với những pháp đoạn đầu vi diệu, đoạn giữa vi diệu và đoạn cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; những pháp như vậy được vị ấy học rộng, nghe nhiều, tập luyện đến ngàn lần, chú ý tư duy, quán sát, hiểu sâu; vị ấy thuyết pháp gọn gàng, lưu loát, hoàn toàn tương ưng với mục đích đoạn trừ các kiết sử. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la này.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo A-nan đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo A-nan đã thành tựu đa văn.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, Hiền giả A-nan nói như vậy rồi, con lại hỏi Hiền giả Lyviệt-đa: “Hiền giả Ly-việt-đa, Hiền giả A-nan đã nói theo hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Ly-việt-đa: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Ly-việt-đa, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Hiền giả Ly-việt-đa liền đáp lời con rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳkheo ưa tĩnh tọa, bên trong thực hành phương pháp chỉ tức, không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ yên tĩnh. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ly-việt-đa đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo Ly-việt-đa thích tọa thiền.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, Hiền giả Ly-việt-đa nói như vậy rồi, con lại hỏi Hiền giả A-na-luật-đà: “Hiền giả Ly-việt-đa đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả A-na-luật-đà: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả A-na-luật-đà, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Hiền giả A-na-luật-đà liền đáp lại con rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, Tỳ-kheo đạt được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, ở một ngàn thế giới, với một ít phương tiện, trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, ví như người có mắt ở trên lầu cao nhìn xuống khu đất trống có một ngàn gò nổng, với một ít phương tiện, trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, cũng vậy, nếu Tỳ-kheo có được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, ở trong một ngàn thế giới, với một ít phương tiện, trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo A-na-luật-đà đã nói. Vì sao? Vì A-na-luật-đà Tỳ-kheo đã thành tựu thiên nhãn.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, Hiền giả A-na-luật-đà nói như vậy rồi, con lại hỏi Hiền giả Ca-chiên-diên: “Hiền giả A-na-luật-đà đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Ca-chiên-diên: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Ca-chiên-diên, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Hiền giả Ca-chiên-diên liền đáp lại con rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, ví như hai Tỳ-kheo pháp sư cùng bàn luận về nghĩa lý thâm áo của A-tỳ-đàm; những điều được hỏi đều được thấu hiểu tường tận, những lời giải đáp thì thông suốt, sự thuyết pháp thì lưu loát. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ca-chiên-diên đã nói. Vì sao? Vì Ca-chiên-diên Tỳ-kheo là phân biệt Pháp sư.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, Hiền giả Ca-chiên-diên nói như vậy rồi, con lại hỏi Tôn giả Đại Ca-diếp: “Hiền giả Ca-chiên-diên Tỳ-kheo đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Tôn giả Đại Ca-diếp: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Đại Ca-diếp, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Tôn giả Đại Ca-diếp liền đáp lại con rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳkheo tự mình ở nơi vô sự, khen ngợi ở nơi vô sự; tự mình có thiểu dục, khen ngợi sự thiểu dục; tự mình tri túc, khen ngợi sự tri túc; tự mình thích sống cô độc viễn ly, khen ngợi sự thích sống cô độc viễn ly; tự mình tu hành tinh tấn, khen ngợi sự tu hành tinh tấn; tự mình lập chánh niệm, chánh trí, khen ngợi sự lập chánh niệm, chánh trí; tự mình đắc định, khen ngợi sự đắc định; tự mình có trí tuệ, khen ngợi sự có trí tuệ; tự mình các lậu đã sạch, khen ngợi các lậu đã sạch; tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Hiền giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ca-diếp đã nói. Vì sao? Vì Đại Ca-diếp Tỳ-kheo thường tu hạnh vô sự.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Đại Ca-diếp nói như vậy rồi, con lại hỏi Hiền giả Mục-kiền-liên: “Tôn giả Đại Ca-diếp đã nói theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi hỏi Hiền giả Mục-kiền-liên: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Hiền giả Đại Ca-diếp, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Hiền giả Đại Mục-kiền-liên liền đáp lại con rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, được tự tại vô lượng như ý túc; thực hành vô lượng như ý túc, có thể biến một thành nhiều, hợp nhiều thành một, một ở vị trí của một, có thể biết, có thể thấy, có thể xuyên qua vách đá như hư không, không ngăn ngại, ra vào trong đấy dễ như nước, đi trên nước như đi trên đất mà không bị chìm, bay lên không trung mà ngồi kiết-già như loài chim; ngay đối với mặt trăng và mặt trời có đại như ý túc, có đại phước hựu, có đại oai thần, vị ấy đưa tay sờ được, thân cao đến cõi trời Phạm thiên. Tôn giả Xá-lợi-tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-tử, đúng như lời Tỳ-kheo Mục-kiền-liên đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo Mục-kiền-liên có đại như ý túc.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo một bên, chắp tay và bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con và chư Tôn giả nói như vậy rồi, con liền bạch Tôn giả Xá-lợi-tử rằng: “Tôn giả Xá-lợi-tử, tôi và chư Tôn giả mỗi người đã tự trình bày theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ, tôi xin hỏi Tôn giả Xá-lợi-tử: Khả ái thay khu rừng Ngưu Giác Sa-la này! Ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát ví như hoa trời. Tôn giả Xá-lợi-tử, những hạng Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la?”
Tôn giả Xá-lợi-tử liền đáp lại con rằng: “Hiền giả Mục-kiền-liên, nếu có Tỳ-kheo tùy dụng tâm tự tại chứ không phải không tùy tâm; nếu muốn an trú định vào buổi sáng, vị ấy liền an trú định vào buổi sáng; nếu muốn an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều, vị ấy liền an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, ví như y phục của vua và các quan rất nhiều, đủ màu sắc rực rỡ; nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi sáng, liền lấy mặc vào; nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi trưa hay buổi chiều, liền lấy mặc vào. Hiền giả Mục-kiền-liên, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo nào tùy dụng tâm tự tại chứ không phải không tùy tâm; nếu muốn an trú định vào buổi sáng, vị ấy liền an trú định vào buổi sáng; nếu muốn an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều, vị ấy liền an trú định vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.”
Thế Tôn khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Mục-kiền-liên, đúng như lời Tỳ-kheo Xá-lợi-tử đã nói. Vì sao? Vì Xá-lợi-tử Tỳ-kheo tùy dụng tâm tự tại.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo một bên, chắp tay và bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con và chư Hiền nói như vậy rồi, con bảo rằng: “Hiền giả Mục-kiền-liên, tôi và chư Hiền mỗi người đã tự trình bày theo sự hiểu biết của mình. Hiền giả Mục-kiền-liên, chúng ta hãy cùng với chư Hiền đi đến chỗ đức Phật để biết trong những điều vừa thảo luận ấy, vị nào nói đúng.” Bạch Thế Tôn, trong chúng con, ai nói đúng?
Thế Tôn đáp rằng:
– Này Xá-lợi-tử, tất cả đều đúng. Vì sao? Vì các pháp đó chính là những điều Ta nói. Xá-lợi-tử, hãy nghe Ta nói. Vị Tỳ-kheo như vầy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la. Này Xá-lợi-tử, nếu có Tỳ-kheo tùy theo chỗ ở hoặc thành quách, thôn ấp, qua khỏi đêm, vào buổi sáng sớm, vị ấy mang y cầm bát vào thôn khất thực, khéo thủ hộ thân, khéo thúc liễm các căn, khéo giữ tâm niệm; vị ấy sau khi khất thực xong, sau giờ ngọ, thâu xếp y bát, rửa chân tay, lấy tọa cụ vắt lên vai, đến chỗ vô sự, hoặc nơi gốc cây hay chỗ thanh vắng, trải ni-sư-đàn mà ngồi kiết-già, ngồi luôn cho đến chứng Lậu tận mới giải kiết-già; vị ấy không giải kiết-già cho đến khi nào chứng được Lậu tận. Này Xá-lợi-tử, Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu Giác Sa-la.
Đức Phật thuyết giảng như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.