Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật du hóa tại nước Ương-kỳ, cùng với đại chúng Tỳ-kheo. Ngài cùng với đại chúng Tỳ-kheo đi đến Mã Ấp, ngụ tại Mã Lâm tự.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các thầy Tỳ-kheo:
– Người ta thấy các thầy, những vị Sa-môn, là Sa-môn. Nếu có ai hỏi các thầy, những vị Sa-môn thì các thầy có tự xưng mình là Sa-môn chăng?
Các thầy Tỳ-kheo bạch:
– Bạch Thế Tôn, có!
Đức Phật lại nói:
– Cho nên các thầy chính vì lẽ đó, chính vì là Sa-môn, phải học đạo hạnh của Sa-môn, đừng không phải là Sa-môn. Sau khi đã học đạo hạnh của Sa-môn, bấy giờ mới là Sa-môn chân chánh, không phải là Sa-môn hư danh. Nếu có thọ nhận áo chăn, ẩm thực, giường chõng, thuốc thang, và các thứ sinh hoạt khác thì những người cung cấp mới được phước lớn, được kết quả lớn, được công đức lớn và được quả báo rộng rãi. Các thầy nên học như vậy.
Thế nào là không phải đạo hạnh của Sa-môn, không phải là Sa-môn? Có tham lam, không bỏ tham lam; có nóng giận, không bỏ nóng giận; có sân hận, không bỏ sân hận; có oán hờn, không bỏ oán hờn; có kết oán, không bỏ kết oán; có bỏn xẻn, không bỏ bỏn xẻn; có tật đố, không bỏ tật đố; có dua nịnh, không bỏ dua nịnh; có lường gạt, không bỏ lường gạt; có tật không biết xấu, không bỏ tật không biết xấu; có tánh không biết thẹn, không bỏ tánh không biết thẹn; có ác dục, không bỏ ác dục; có tà kiến, không bỏ tà kiến. Sa-môn đó gọi là Sa-môn ô uế, là Sa-môn du siểm, là Sa-môn trá ngụy, là Sa-môn bất chính; họ sẽ sanh đến chỗ ác, chưa học hết bổn phận, không phải là đạo hạnh Sa-môn, không phải là Sa-môn.
Cũng như cái búa mới rèn rất bén, đầu có mũi nhọn, bỏ trong Tăng-già-lê, Ta nói những người ngu si học đạo Sa-môn kia cũng như vậy. Nghĩa là có tham lam, không bỏ tham lam; có nóng giận, không bỏ nóng giận; có sân hận, không bỏ sân hận; có oán hờn, không bỏ oán hờn; có kết oán, không bỏ kết oán; có bỏn xẻn, không bỏ bỏn xẻn; có tật đố, không bỏ tật đố; có dua nịnh, không bỏ dua nịnh; có lường gạt, không bỏ lường gạt; có tật không biết xấu, không bỏ tật không biết xấu; có tánh không biết thẹn, không bỏ tánh không biết thẹn; có ác dục, không bỏ ác dục; có tà kiến, không bỏ tà kiến; dù họ khoác Tăng-già-lê, Ta không nói họ là Sa-môn. Nếu ai đắp Tăng-già-lê mà có tham lam thì bỏ tham lam, có nóng giận thì bỏ nóng giận, có sân hận thì bỏ sân hận, có oán hờn thì bỏ oán hờn, có kết oán thì bỏ kết oán, có bỏn xẻn thì bỏ bỏn xẻn, có tật đố thì bỏ tật đố, có dua nịnh thì bỏ dua nịnh, có lường gạt thì bỏ lường gạt, có tật không biết xấu thì bỏ tật không biết xấu, có tánh không biết thẹn thì bỏ tánh không biết thẹn, có ác dục thì bỏ ác dục, có tà kiến thì bỏ tà kiến thì bạn bè thân thiết của người ấy nên đến nói với người ấy rằng: “Này chú, chú hãy học cách đắp Tăng-già-lê. Này chú, nếu chú học cách đắp Tăng-già-lê mà có tham lam thì bỏ tham lam, có nóng giận thì bỏ nóng giận, có sân hận thì bỏ sân hận, có oán hờn thì bỏ oán hờn, có kết oán thì bỏ kết oán, có bỏn xẻn thì bỏ bỏn xẻn, có tật đố thì bỏ tật đố, có dua nịnh thì bỏ dua nịnh, có lường gạt thì bỏ lường gạt, có tật không biết xấu thì bỏ tật không biết xấu, có tánh không biết thẹn thì bỏ tánh không biết thẹn, có ác dục thì bỏ ác dục, có tà kiến thì bỏ tà kiến.” Bởi vì Ta thấy người đắp Tăng-già-lê mà vẫn có tham lam, nóng giận, sân hận, oán hờn, kết oán, bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, lường gạt, không biết xấu, không biết thẹn, ác dục và tà kiến; cho nên người đắp Tăng-già-lê ấy, Ta không nói là Sa-môn. Cũng như vậy, lõa hình, bện tóc đứng thẳng, ăn một bữa, thường tung nước, tắm nước; những Sa-môn có hạnh như vậy, Ta cũng không chấp nhận là Sa-môn. Nếu Sa-môn do tắm nước mà có tham lam bỏ tham lam, có nóng giận bỏ nóng giận, có sân hận bỏ sân hận, có oán hờn bỏ oán hờn, có kết oán bỏ kết oán, có bỏn xẻn bỏ bỏn xẻn, có tật đố bỏ tật đố, có dua nịnh bỏ dua nịnh, có lường gạt bỏ lường gạt, có tật không biết xấu bỏ tật không biết xấu, có tánh không biết thẹn bỏ tánh không biết thẹn, có ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến thì bạn bè thân thiết của người ấy nên đến bảo với người ấy: “Này chú, chú nên tắm nước, vì do tắm nước mà có tham lam bỏ tham lam, có nóng giận bỏ nóng giận, có sân hận bỏ sân hận, có oán hờn bỏ oán hờn, có kết oán bỏ kết oán, có bỏn xẻn bỏ bỏn xẻn, có tật đố bỏ tật đố, có dua nịnh bỏ dua nịnh, có lường gạt bỏ lường gạt, có tật không biết xấu bỏ tật không biết xấu, có tánh không biết thẹn bỏ tánh không biết thẹn, có ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến.” Bởi vì Ta thấy có người tắm nước mà vẫn có tham lam, nóng giận, sân hận, oán hờn, kết oán, bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, lường gạt, không biết xấu, không biết thẹn, ác dục và tà kiến; cho nên người tắm nước ấy, Ta không chấp nhận là Sa-môn. Đó gọi là không phải đạo hạnh của Sa-môn, không phải là Sa-môn.
Thế nào là đạo hạnh của Sa-môn, chẳng phải không là Sa-môn? Nếu có tham lam bỏ tham lam, có nóng giận bỏ nóng giận, có sân hận bỏ sân hận, có oán hờn bỏ oán hờn, có kết oán bỏ kết oán, có bỏn xẻn bỏ bỏn xẻn, có tật đố bỏ tật đố, có dua nịnh bỏ dua nịnh, có lường gạt bỏ lường gạt, có tật không biết xấu bỏ tật không biết xấu, có tánh không biết thẹn bỏ tánh không biết thẹn, có ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến. Sự tật đố ấy của Sa-môn, sự dua nịnh của Sa-môn, sự trá ngụy của Sa-môn, sự tà kiến của Sa-môn đưa đến chỗ dữ đều đã bị dứt sạch, rồi học đạo hạnh của Sa-môn. Vị ấy như vậy không phải không là Sa-môn. Đó là đạo hạnh của Sa-môn, không phải không là Sa-môn. Vị ấy như vậy thành tựu giới, thân thanh tịnh, miệng, ý thanh tịnh, không tham lam, trong tâm không có sân nhuế, không có thụy miên, không trạo cử, không kiêu ngạo, đoạn nghi, trừ hoặc, chánh niệm, chánh trí, không ngu si. Tâm vị ấy đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú. Cũng vậy, hai, ba, bốn phương, phương trên, phương dưới và bốn phương bàng, khắp tất cả, tâm của vị ấy đi đôi với từ, không kết không oán, không giận không tranh, rất rộng rất lớn, tu vô lượng thiện, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Cũng vậy, tâm bi, tâm hỷ đi đôi với xả, không kết không oán, không giận không tranh, rất rộng rất lớn, tu vô lượng thiện, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Vị ấy tự nghĩ: “Có thô, có diệu, có tưởng, đến trên, xuất yếu, biết như thật.” Sau khi biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu. Sau khi đã giải thoát, vị ấy biết mình đã giải thoát: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy biết đúng như thật.
Cũng như cách làng nọ không xa, có ao tắm tốt, nước trong chảy tràn, cỏ xanh phủ bờ, cây hoa bốn phía. Giả sử có một người từ phương Đông đến, bị đói khát, mệt mỏi, cởi áo bỏ trên bờ, xuống ao, mặc sức tắm rửa sạch bụi nhơ, trừ khử nóng bức và khát. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng vậy, giả sử có một người từ các phương đó đến, bị đói khát, mệt mỏi, cởi áo bỏ trên bờ, xuống ao, mặc sức tắm rửa sạch bụi nhơ, trừ khử nóng bức và khát. Cũng vậy, một thiện nam tử dòng Sát-đế-lợi cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, nội tâm tu tĩnh chỉ, khiến được nội tâm tĩnh chỉ. Vị này nội tâm tĩnh chỉ, Ta nói vị ấy là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh dục. Cũng vậy, một thiện nam tử dòng Phạm chí, cư sĩ, công sư, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, nội tâm tu tĩnh chỉ, khiến được nội tâm tĩnh chỉ. Người với nội tâm tĩnh chỉ, Ta nói người ấy là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh dục.
Thế nào gọi là Sa-môn? Là người đã dứt trừ các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, chúng là gốc rễ của hữu trong tương lai, là nhân của phiền não, khổ báo, sanh, lão, bệnh, tử. Đó gọi là Sa-môn.
Thế nào gọi là Phạm chí? Là người xa lìa các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, chúng là gốc rễ của hữu trong tương lai, là nhân của phiền não, khổ báo, sanh, lão, bệnh, tử. Đó gọi là Phạm chí.
Thế nào gọi là Thánh? Là người xa lìa các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, chúng là gốc rễ của hữu trong tương lai, là nhân của phiền nhiệt, khổ báo, sanh, lão, bệnh, tử. Đó gọi là Thánh.
Thế nào gọi là Tịnh dục? Là người đã rửa sạch các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, chúng là gốc rễ của hữu trong tương lai, là nhân của phiền nhiệt, khổ báo, sanh, lão, bệnh, tử. Đó gọi là Tịnh dục.
Như thế gọi là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh dục.
Đức Phật thuyết giảng như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.