Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan một mình trong tịnh thất, tĩnh tọa tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ này: “Những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ phải không từ trí tuệ. Những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.”
Rồi Tôn giả A-nan vào lúc xế trưa, từ tĩnh tọa dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên và bạch:
– Bạch Thế Tôn, hôm nay con một mình trong tịnh thất, tĩnh tọa tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ này: “Những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.”
Đức Thế Tôn nói:
– Thật vậy A-nan, thật vậy A-nan. Những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Này A-nan, cũng như lửa dậy từ bụi lau, bụi cỏ, cháy luôn cả lầu gác, cung điện, nhà cửa. Này A-nan, cũng vậy, những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
Này A-nan, trong quá khứ, nếu những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Nếu những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
Này A-nan, trong thời vị lai, nếu những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Nếu những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
Này A-nan, trong thời hiện tại, những ai có sợ hãi, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. Những ai vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
Này A-nan, nghĩa là, ngu si có sợ hãi; trí tuệ không sợ hãi; ngu si có vấp ngã, tai họa, ưu não; trí tuệ không có vấp ngã, tai họa, ưu não.
Này A-nan, những ai có sợ hãi, vấp ngã, tai họa, ưu não, tất cả những người ấy có thể tìm thấy nơi ngu si, chứ không phải nơi trí tuệ.
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan buồn rầu, khóc lóc, nước mắt chảy, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo ngu si, không phải trí tuệ?
Thế Tôn đáp:
– Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào không biết giới, không biết xứ, không biết nhân duyên, không biết thị xứ, phi xứ. Này A-nan, Tỳ-kheo như vậy là ngu si, không phải trí tuệ.
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo như vậy là ngu si, không phải là trí tuệ. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo trí tuệ, không phải ngu si?
Thế Tôn đáp:
– Này A-nan, Tỳ-kheo biết giới, biết xứ, biết nhân duyên, biết thị xứ phi xứ. A-nan, Tỳ-kheo như vậy là trí tuệ, không phải ngu si.
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo như vậy là trí tuệ, không phải ngu si. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết giới?
Thế Tôn đáp:
– Này A-nan, Tỳ-kheo thấy và biết như thật về mười tám giới như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới. A-nan, thấy và biết mười tám giới này một cách như thật.
Lại nữa, này A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới như địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới. A-nan, thấy và biết sáu giới này một cách như thật.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới như dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới. Này A-nan, thấy và biết sáu giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới như lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới. Này A-nan, thấy và biết sáu giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về bốn giới như thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới. Này A-nan, thấy và biết bốn giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Này A-nan, thấy và biết ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như sắc giới, vô sắc giới, diệt giới. Này A-nan, thấy và biết ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới. Này A-nan, thấy và biết ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như diệu giới, bất diệu giới, trung giới. Này A-nan, thấy và biết ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới. Này A-nan, thấy và biết về ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba giới như học giới, vô học giới, phi học vô học giới. Này A-nan, thấy và biết ba giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về hai giới như hữu lậu giới, vô lậu giới. Này A-nan, thấy và biết hai giới này một cách như thật.
Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về hai giới như hữu vi giới, vô vi giới. Này A-nan, thấy và biết hai giới này một cách như thật.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này. Này A-nan, Tỳ kheo biết giới như vậy.
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo biết giới như vậy. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết xứ?
Thế Tôn đáp:
– Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười hai xứ như nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tỷ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. A-nan, thấy và biết như thật về mười hai xứ này. Này A-nan, Tỳ-kheo biết xứ như vậy.
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo biết xứ như vậy. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết nhân duyên?
Thế Tôn đáp:
– Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về nhân duyên và pháp sanh khởi từ nhân duyên rằng: “Do cái này có nên cái kia có; cái này không nên cái kia không; cái này sanh nên cái kia sanh; cái này diệt nên cái kia diệt.” Tức là duyên vô minh có hành, cho đến duyên sanh có già chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì già, chết diệt. Này A-nan, Tỳ-kheo biết nhân duyên như vậy.
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo biết nhân duyên như vậy. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết thị xứ, phi xứ?
Thế Tôn đáp:
– Tỳ-kheo thấy và biết như thật về xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. Này A-nan, nếu trong đời có hai vị Chuyển Luân Vương cùng cai trị, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu trong đời có một Chuyển Luân Vương cai trị, trường hợp này tất có. Này A-nan, nếu trong đời có hai đức Như Lai, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu trong đời này có một đức Như Lai, trường hợp này tất có.
Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà còn cố ý sát hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, ác tâm với Phật, làm Như Lai đổ máu; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu cố ý hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, ác tâm với Phật, làm Như Lai đổ máu; trường hợp này tất có xảy ra. A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà cố tình phạm giới, xả giới, bỏ đạo; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu cố ý phạm giới, xả giới, bỏ đạo; trường hợp này tất có. Nếu một người đã thấy đế lý mà xả ly nội đạo này, tôn thờ ngoại đạo, mong cầu phước điền ở đó; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu xả ly nội đạo này, tôn thờ ngoại đạo, mong cầu phước điền ở đó; trường hợp này tất có. Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà theo các Sa-môn, Phạm chí khác, nói như vầy: “Các ngài thấy điều đáng thấy, biết điều đáng biết”; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu người phàm phu theo các Sa-môn, Phạm chí khác, nói rằng: “Các ngài thấy điều đáng thấy, biết điều đáng biết”; trường hợp này tất có. Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà còn tin bói toán, hỏi cát hung; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu người phàm phu tin bói toán, hỏi cát hung; trường hợp này tất có. Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà theo các Sa-môn, Phạm chí khác mà bói toán, hỏi cát hung, thấy có khổ, có phiền não, không chân thật; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu người phàm phu theo các Sa-môn, Phạm chí khác mà bói toán, hỏi cát hung, thấy có khổ, có phiền não, không chân thật; trường hợp này tất có. A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà phát sanh sự cực khổ, hết sức khổ, không thể ái, không thể lạc, không thể tư, không thể niệm, cho đến đoạn mạng, bèn xả ly nội đạo này, cầu cứu ở ngoại đạo; hoặc có Sa-môn, Phạm chí trì chú một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm ngàn câu, “Mong giải trừ sự khổ đau cho tôi”; đó là đi tìm sự khổ, tập khởi sự khổ, dẫn đến sự khổ, mà nói là dứt khổ; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu xả ly nội đạo này mà cầu cứu ngoại đạo; hoặc có Sa-môn, Phạm chí trì chú một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm ngàn câu, “Mong giải trừ sự khổ đau cho tôi”; đó là đi tìm sự khổ, tập khởi sự khổ, dẫn đến sự khổ, mà nói là dứt khổ; trường hợp này tất có. A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà tái sanh lần thứ tám, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu tái sanh lần thứ tám, trường hợp này tất có.
Này A-nan, nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành, do duyên này, thân hoại mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành, do duyên này, thân hoại mạng chung đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành, do duyên này, thân hoại mạng chung đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành, do duyên này, thân hoại mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành mà thọ lạc báo; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành mà thọ khổ báo; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành mà thọ khổ báo; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành mà thọ lạc báo; trường hợp này tất có.
Này A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, mà tâm có thể an trú vững vàng trên bốn niệm xứ; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, mà tâm an trú vững vàng trên bốn niệm xứ; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trú vững vàng trên bốn niệm xứ mà muốn tu bảy giác chi; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm an trú vững vàng trên bốn niệm xứ mà tu bảy giác chi; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trú vững vàng trên bốn niệm xứ, không tu bảy giác chi mà muốn chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, an trú vững vàng trên bốn niệm xứ, tu bảy giác chi, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác; trường hợp này tất có. A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trú vững vàng trên bốn niệm xứ, không tu bảy giác chi, không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác mà đoạn tận khổ biên; trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, an trú vững vàng trên bốn niệm xứ, tu bảy giác chi, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, đoạn tận khổ biên; trường hợp này tất có.
Này A-nan, như vậy là Tỳ-kheo biết thị xứ, phi xứ!
Tôn giả A-nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, như vậy là Tỳ-kheo biết thị xứ, phi xứ!
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, kinh này tên gọi là gì? Nên phụng trì như thế nào?
Thế Tôn đáp:
– Này A-nan, hãy thọ trì pháp này, là đa giới, pháp giới, cam lộ giới, đa cổ, pháp cổ, cam lộ cổ, là pháp kính, là tứ phẩm. Do đó, kinh này được gọi là “Đa giới.”
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.