Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

177. KINH THUYẾT
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở trong đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm, Câu-lâu.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:

– Ta sẽ thuyết pháp cho các thầy nghe; vi diệu ở đoạn đầu, vi diệu ở đoạn giữa và vi diệu ở đoạn cuối; có văn, có nghĩa, đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; đó là Kinh Tứ chủng thuyết. Sau đây, Ta sẽ phân biệt nghĩa lý của Kinh Tứ chủng thuyết. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy khéo tư niệm, Ta sẽ giảng!

Khi ấy, các Tỳ-kheo vâng lời dạy, chờ nghe. Đức Phật nói:

– Thế nào gọi là phân biệt nghĩa lý của Kinh Tứ chủng thuyết?

Nếu có Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng và tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với dục lạc, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy phải nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy phải nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Và vị ấy thọ lãnh sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, khiến an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ hai, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng đắc Thiền thứ hai.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này có thể khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ nhất, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ ba, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng đắc Thiền thứ ba.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ ba, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳkheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ tư, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng Thiền thứ tư.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trú với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên ta bị nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Thiền thứ ba, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy. 

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng không xứ, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng đắc vô lượng không xứ.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, thành tựu và an trú Vô lượng không xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với ái lạc sắc, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, thành tựu và an trú Vô lượng không xứ. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy. 

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, thành tựu và an trú Vô lượng không xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng thức xứ, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng đắc vô lượng thức xứ.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, thành tựu và an trú Vô lượng không xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu và an trú Vô lượng thức xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng không xứ, với sự thối chuyển thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu và an trú Vô lượng thức xứ. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này khiến ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu và an trú Vô lượng thức xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô sở hữu xứ, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa, sẽ chứng đắc Vô sở hữu xứ.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu và an trú Vô lượng thức xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, thành tựu và an trú Vô sở hữu xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng thức xứ, với sự thối chuyển, Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không trú, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta bị thối chuyển. Do đó, định này của ta không tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, thành tựu và an trú Vô sở hữu xứ. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trú với ý chuyên nhất thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không tiến, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được an trú. Do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, thành tựu và an trú Vô sở hữu xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, với sự thăng tiến thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không nhàm chán. Vì ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng đắc Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, thành tựu và an trú Vô sở hữu xứ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với sự nhàm chán, với sự vô dục thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: “Ta sanh pháp này mà không thối chuyển, không trú, cũng không thăng tiến. Vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm chán. Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận.” Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.

Có tưởng và có thọ được biết ngang đến mức ấy, cho đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ là hành nghiệp lưu dư cao hơn hết trong sự hữu. Tỳ-kheo hành thiền hãy phát khởi theo như vậy, hãy thuyết giảng lại cho người khác biết!

Đức Phật thuyết như vậy, các thầy Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.