Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo:
– Trong thế gian quả thật có bốn loại người hành thiền. Những gì là bốn? Hoặc có người hành thiền xí thạnh mà gọi là suy thoái, hoặc có người hành thiền suy thoái mà gọi là xí thạnh, hoặc có người hành thiền suy thoái thì biết như thật là suy thoái, hoặc có người hành thiền xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Thế nào gọi là người hành thiền xí thạnh mà cho là suy thoái? Người hành thiền kia ly dục, ly pháp ác, bất thiện, có giác có quán, hỷ và lạc phát sanh do ly dục, chứng Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Tâm người đó tu tập chánh tư duy thì từ Thiền thứ nhất hướng đến Thiền thứ hai; đó là sự tịch tịnh thù thắng. Nhưng người hành thiền đó lại nghĩ rằng: “Tâm ta lìa bổn tướng, mà hướng đến chỗ khác, làm mất Thiền thứ nhất và diệt mất định.” Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc, tịch tịnh, từ Thiền thứ nhất hướng đến Thiền thứ hai; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật như vậy nên đối với sự như thật mà thối chuyển ý, bèn mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền, giác và quán đã tịch tịnh, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ và lạc phát sanh do định, chứng Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Thiền thứ hai hướng đến Thiền thứ ba; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ rằng: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Thiền thứ hai và diệt mất định.” Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ hai hướng đến Thiền thứ ba; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật, đối với sự như thật mà thối chuyển ý, liền mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền ly hỷ và dục, xả, vô cầu, an trú chánh niệm, chánh trí, thân có cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Thiền thứ ba hướng đến Thiền thứ tư; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng người hành thiền đó lại nghĩ: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, mất Thiền thứ ba và diệt mất định.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ nơi Thiền thứ ba hướng đến Thiền thứ tư; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật, đối với sự như thật mà thối chuyển ý, liền mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với khổ diệt, lạc diệt, hỷ và ưu vốn có cũng diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Thiền thứ tư hướng đến Vô lượng không xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Thiền thứ tư và diệt mất định.” Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Thiền thứ tư hướng đến Vô lượng không xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật, đối với sự như thật mà thối chuyển ý, làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, thành tựu an trú nơi Vô lượng không xứ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, mất Vô lượng không xứ và diệt mất định.” Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật, đối với sự như thật mà thối chuyển ý, làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu an trú Vô lượng thức xứ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Vô lượng thức xứ, diệt mất định.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy không biết như thật nên đối với sự như thật mà thối chuyển ý, làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà gọi là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu,thànhtựuantrúVôsởhữuxứ.Tâmvịấytutậpchánhtưduy,từVôsởhữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Vô sở hữu xứ, diệt mất định.” Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ chỗ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy do không biết như thật nên đối với sự như thật mà thối chuyển ý, làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh mà nói là suy thoái.
Thế nào là hành thiền suy thoái mà cho là xí thạnh?
Người hành thiền ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Thiền thứ hai. Nhưng người ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Thiền thứ nhất hướng đến Thiền thứ hai; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Thiền thứ nhất, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Thiền thứ hai. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vị ấy vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền với giác và quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng Thiền thứ hai, thành tựu và an trú. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Thiền thứ ba. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Thiền thứ hai hướng đến Thiền thứ ba; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Thiền thứ hai, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Thiền thứ ba. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền ly hỷ, ly dục, xả, vô cầu, an trú chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng Thiền thứ ba, thành tựu và an trú. Vị ấy tư duy trong những tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Thiền thứ tư. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Thiền thứ ba hướng đến Thiền thứ tư; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Thiền thứ tư, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Thiền thứ tư. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền với lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn có cũng diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Người hành thiền ấy tư duy trong những tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Vô lượng không xứ. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Thiền thứ tư hướng đến Vô lượng không xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Thiền thứ tư, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Vô lượng không xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không xứ, chứng Vô lượng không xứ, thành tựu an trú. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Vô lượng thức xứ. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Vô lượng không xứ, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Vô lượng thức xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Vô sở hữu xứ. Nhưng người hành thiền ấy nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Vô lượng thức xứ, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Vô sở hữu xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú. Vị ấy tư duy trong những tưởng nhỏ hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Nhưng người hành thiền ấy lại nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, từ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Người hành thiền ấy không biết như thật rằng có thể tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Vô sở hữu xứ, nhưng không thể bằng tư duy về những tưởng nhỏ hẹp khác mà vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vì vậy mà mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
Thế nào là người hành thiền suy thoái thì biết như thật là suy thoái?
Người hành thiền ấy với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chứng Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Vô sở hữu xứ mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền ấy với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Vô lượng thức xứ mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô sở hữu xứ, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền ấy với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Vô lượng không xứ mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô lượng thức xứ, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả các sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, chứng Vô lượng không xứ, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên sự ái lạc sắc mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô lượng không xứ, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn có cũng đã diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Thiền thứ ba mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Thiền thứ tư, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, ly hỷ, ly dục, xả, vô cầu, an trú chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Thiền thứ hai mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Thiền thứ ba, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, giác và quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên Thiền thứ nhất mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Thiền thứ hai, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Lại nữa, người hành thiền với sở hành, với đối tượng và mục tiêu, ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Nhưng vị ấy không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên sự ái lạc dục mà niệm tưởng tương ưng vốn đã thối thất sẵn. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Thiền thứ nhất, diệt mất định.” Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thối ý, không mất định. Người hành thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Thế nào là người hành thiền xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh?
Người hành thiền ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ nhất hướng đến Thiền thứ hai; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ nhất hướng đến Thiền thứ hai; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền với giác quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ hai hướng đến Thiền thứ ba; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ hai hướng đến Thiền thứ ba; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền ly hỷ, ly dục, xả, vô cầu, an trú chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ ba hướng đến Thiền thứ tư; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ ba hướng đến Thiền thứ tư; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền với lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn có cũng đã diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ tư hướng đến Vô lượng không xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Thiền thứ tư hướng đến Vô lượng không xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào, nhập Vô lượng không, chứng Vô lượng không xứ ấy, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền vượt qua Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ ấy, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Lại nữa, người hành thiền ấy vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; đó là tịch tịnh thù thắng. Người hành thiền ấy bèn nghĩ: “Tâm ta tu tập chánh tư duy, an lạc tịch tịnh, rồi từ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; đó là tịch tịnh thù thắng.” Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không làm mất định. Người hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
Thế gian quả thật có bốn loại người hành thiền như vậy, vì vậy mà Ta giảng thuyết.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.