Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

171. KINH PHÂN BIỆT ĐẠI NGHIỆP
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá, trú trong Trúc Lâm, vườn Ca- lan-đa.

Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng trú ở thành Vương Xá, trong thiền thất Vô Sự. Lúc ấy, dị học Bộ-la-đà-tử sau giờ trưa, ung dung đi đến chỗ Tôn giả Tam- di-đề, cùng chào hỏi rồi ngồi xuống một bên và hỏi:

– Này Tôn giả Tam-di-đề, tôi có điều muốn hỏi, ngài cho phép chăng? Tôn giả Tam-di-đề đáp:
– Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, muốn hỏi xin tùy ý, tôi nghe xong sẽ suy nghĩ! Dị học Bộ-la-đà-tử bèn hỏi:

– Này Tôn giả Tam-di-đề, tôi đối diện đức Sa-môn Cù-đàm mà nghe, tôi đối diện đức Sa-môn Cù-đàm mà ghi nhận rằng: “Thân nghiệp, khẩu nghiệp là hư vọng; chỉ có ý nghiệp là chân thật. Hoặc có một loại định, Tỳ-kheo vào định đó không còn có cảm giác.”

Tôn giả Tam-di-đề đáp:

– Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, ngài chớ có nói như vậy, chớ có hủy báng đức Thế Tôn, hủy báng đức Thế Tôn là bất thiện, Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, đức Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện nói rằng: “Nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác đã thành, Ta nói không phải là không thọ báo, hoặc hiện tại thọ báo, hoặc đời sau thọ báo. Nếu không cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác nghiệp đã thành, Ta không nói chắc chắn phải thọ báo.”

Dị học Bộ-la-đà-tử ba lần nhắc lại câu ấy với Tôn giả Tam-di-đề:

– Này Tôn giả Tam-di-đề, tôi đối diện Sa-môn Cù-đàm mà nghe, tôi đối diện Sa-môn Cù-đàm mà ghi nhận rằng: “Thân nghiệp, khẩu nghiệp là hư vọng; chỉ có ý nghiệp là chân thật. Có một loại định, Tỳ-kheo vào định đó không còn có cảm giác.”

Tôn giả Tam-di-đề cũng ba lần đáp:

– Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, ngài chớ có nói như vậy, chớ có hủy báng đức Thế Tôn, hủy báng đức Thế Tôn là bất thiện, Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, đức Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện nói rằng: “Nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác đã thành, Ta nói không phải là không thọ báo,hoặc hiện tại thọ báo, hoặc đời sau thọ báo. Nếu không cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác đã thành, Ta không nói chắc chắn phải thọ báo.”

Dị học Bộ-la-đà-tử hỏi:

– Này Tôn giả Tam-di-đề, nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác đã thành, phải thọ báo gì?

Tôn giả Tam-di-đề đáp:

– Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tạo tác đã thành, tất thọ quả báo khổ.

Dị học Bộ-la-đà-tử lại hỏi:
– Này Tôn giả Tam-di-đề, ngài học đạo trong Pháp, Luật này đã bao lâu rồi? Tôn giả Tam-di-đề đáp:
– Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, tôi học đạo trong Pháp, Luật này mới có ba năm.

Lúc ấy, dị học Bộ-la-đà-tử bèn suy nghĩ rằng: “Tỳ-kheo niên thiếu mà vẫn có thể bảo hộ Tôn sư như vậy, huống nữa là vị Thượng tôn cựu học.” Rồi dị học Bộ-la-đà-tử nghe Tôn giả Tam-di-đề nói, không cho là phải, cũng không cho là quấy, rời chỗ ngồi, lắc đầu mà đi.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Đại Châu-na cách chỗ nghỉ của Tôn giả Tam-di-đề không xa. Tôn giả Đại Châu-na nghe cuộc đối thoại giữa Tôn giả Tam-di-đề với dị học Bộ-la-đà-tử, ghi nhớ tất cả, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả A-nan, cùng chào hỏi xong rồi ngồi xuống một bên, đem những lời thảo luận của Tôn giả Tam-di-đề và dị học Bộ-la-đà-tử thuật lại hết cho Tôn giả A-nan nghe. Tôn giả A-nan nghe xong bảo rằng:

– Này Hiền giả Châu-na, nhân câu chuyện này, chúng ta nên đến gặp đức Phật và trình bày lên Thế Tôn. Hiền giả Châu-na, chúng ta hãy cùng đến nơi Thế Tôn và bạch lên Thế Tôn tất cả nghĩa này, hoặc nhân đây chúng ta được nghe những pháp nào khác của Thế Tôn.

Rồi Tôn giả A-nan và Tôn giả Đại Châu-na cùng đi đến chỗ Phật. Tôn giả Châu-na cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả A-nan cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng qua một bên. Lúc đó, Tôn giả A-nan nói:

– Này Hiền giả Châu-na, Hiền giả nên nói đi! Hiền giả nên nói đi! Bấy giờ, Thế Tôn hỏi:
– Này A-nan, Tỳ-kheo Châu-na muốn nói điều gì?
Tôn giả A-nan bạch:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sẽ nghe hết câu chuyện!

Rồi Tôn giả Đại Châu-na thuật lại đầu đuôi câu chuyện giữa Tôn giả Tam- di-đề và dị học Bộ-la-đà-tử cho Phật nghe. Nghe xong, Thế Tôn bảo:

– Này A-nan, hãy coi! Tỳ-kheo Tam-di-đề là người mê mờ không biết đạo lý. Vì sao? Vấn đề dị học Bộ-la-đà-tử hỏi là không xác định, mà Tỳ-kheo Tam- di-đề, người mê mờ kia lại trả lời một chiều.

Tôn giả A-nan bạch:

– Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo Tam-di-đề nhân việc này mà trả lời rằng: “Có cảm thọ, đó là cảm thọ khổ” thì có lỗi gì?

Đức Thế Tôn trách Tôn giả A-nan:

– Coi kìa! Tỳ-kheo A-nan cũng không biết đạo lý. Này A-nan, Tam-di-đề mê mờ ấy, kẻ dị học Bộ-la-đà-tử kia muốn hỏi tất cả ba cảm thọ: Khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc thọ. A-nan, nếu Tam-di-đề mê mờ ấy được dị học Bộ-la-đà-tử hỏi nên đáp như vầy: “Này Hiền giả Bộ-la-đà-tử, nếu cố ý tạo lạc nghiệp, khi tạo tác đã thành, sẽ thọ lạc báo. Nếu cố ý tạo khổ nghiệp, khi tạo tác đã thành, sẽ thọ khổ báo. Nếu cố ý tạo nghiệp không khổ không lạc, khi tạo tác đã thành, sẽ thọ báo không khổ không lạc.” Này A-nan, nếu Tam-di-đề mê mờ ấy được dị học Bộ-la-đà-tử hỏi và đáp như vậy thì dị học Bộ-la-đà-tử mắt còn không dám nhìn Tam-di-đề mê mờ ấy, huống nữa lại có thể hỏi đến chuyện như vậy. Này A-nan, nếu thầy muốn nghe Thế Tôn nói Kinh Phân biệt đại nghiệp, đối với Như Lai lại càng tăng thượng tâm tĩnh, được sự hỷ.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, nay thật đúng lúc. Bạch Thiện Thệ, nay thật đúng lúc. Nếu Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói Kinh Phân biệt đại nghiệp, các Tỳ-kheo nghe xong sẽ ghi nhớ kỹ.

Thế Tôn bảo:

– Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ, Ta sẽ phân biệt đầy đủ cho thầy!

Tôn giả A-nan bạch:
– Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Thế Tôn dạy và lắng nghe. Đức Phật nói:

– Này A-nan, ở đây, có trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến. Với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chốn lành, sanh vào cõi trời.

Này A-nan, có trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến. Với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục.

Này A-nan, có trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ
tà kiến. Với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục.

Này A-nan, có trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến. Với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chốn lành, sanh vào cõi trời.

Này A-nan, nếu là trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Nếu có vị Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, thấy người kia, thấy rồi bèn tự suy nghĩ: “Không có thân ác hành, cũng không có quả báo của thân ác hành; không có khẩu và ý ác hành, cũng không có quả báo của khẩu và ý ác hành. Vì sao? Ta thấy người kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Nếu có những trường hợp khác tương tự như vậy: Không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; thì với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Ai thấy như vậy gọi là chánh kiến; ai thấy khác đi, trí họ đi về nẻo tà.” Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.”

Này A-nan, nếu là trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, thấy người kia, thấy rồi bèn tự suy nghĩ: “Không có thân diệu hành, cũng không có quả báo của thân diệu hành; không có khẩu và ý diệu hành, cũng không có quả báo của khẩu và ý diệu hành. Vì sao? Ta thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến ;vớ isự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu có trường hợp khác giống như vậy: Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; thì với sự từ bỏ và thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Ai thấy vậy gọi là chánh kiến; thấy khác đi, trí họ đi về nẻo tà.” Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.”

Này A-nan, nếu là trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, thấy người kia, thấy rồi bèn tự suy nghĩ: “Có thân ác hành, cũng có quả báo của thân ác hành; có khẩu và ý ác hành, cũng có quả báo của khẩu và ý ác hành. Vì sao? Ta thấy người kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu có những trường hợp khác tương tự như vậy: Không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; thì với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục. Ai thấy như vậy là chánh kiến; ai thấy khác, trí họ đi về nẻo tà.” Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.”

Này A-nan, nếu là trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, thấy người kia, thấy rồi bèn tự suy nghĩ: “Có thân diệu hành, cũng có quả báo của thân diệu hành; có khẩu và ý diệu hành, cũng có quả báo của khẩu và ý diệu hành. Vì sao? Ta thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Nếu có trường hợp khác tương tự như vậy: Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; thì với sự từ bỏ và thủ hộ này, tất cả những người ấy, khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về nẻo lành, sanh vào cõi trời. Ai thấy như vậy là chánh kiến; ai thấy khác, trí họ đi về nẻo tà.” Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.”

Này A-nan, trong đó nếu có vị Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn nói như thế này: “Không có thân ác hành, cũng không có quả báo của thân ác hành; không có khẩu và ý ác hành, cũng không có quả báo của khẩu và ý ác hành”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói như thế này: “Ta thấy người kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chốn lành, sanh vào cõi trời”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói như vầy: “Nếu có những trường hợp khác tương tự như vậy: Không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; thì với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chốn lành, sanh vào cõi trời”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Ai thấy như vậy mới là chánh kiến; ai thấy khác, trí họ đi về nẻo tà”; Ta không đồng ý với vị ấy. Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối”; Ta cũng không đồng ý với vị ấy. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết khác với những người đó.

Này A-nan, trong đó nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn nói như thế này: “Không có thân diệu hành, cũng không có quả báo của thân diệu hành; không có khẩu và ý diệu hành, cũng không có quả báo của khẩu và ý diệu hành”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Ta thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chỗ ác, sanh trong địa ngục”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Nếu có những trường hợp khác tương tự như vậy: Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; thì với sự từ bỏ và thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Thấy như vậy là chánh kiến; ai thấy khác, trí của họ đi về nẻo tà”; Ta cũng không đồng ý với vị ấy. Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối”; Ta cũng không đồng ý với vị ấy. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết khác với những người đó.

Này A-nan, trong đó nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn nói như thế này: “Có thân ác hành, cũng có quả báo của thân ác hành; có khẩu và ý ác hành, cũng có quả báo của khẩu và ý ác hành”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Ta thấy người kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chỗ ác, sanh vào địa ngục”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Nếu có những trường hợp khác tương tự như vậy: Không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; thì với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chỗ ác, vào địa ngục”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói rằng: “Thấy như vậy mới là chánh kiến; ai thấy khác, trí họ đi về nẻo tà”; Ta không đồng ý với vị ấy. Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối”; Ta cũng không đồng ý với vị ấy. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết khác với những người đó.

Này A-nan, trong đó nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn nói như thế này: “Có thân diệu hành, cũng có quả báo của thân diệu hành; có khẩu và ý diệu hành, cũng có quả báo của khẩu và ý diệu hành”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Ta thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chốn lành, sanh vào cõi trời”; Ta đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Nếu có những trường hợp khác tương tự: Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; thì với sự từ bỏ và thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định đều đi về chốn lành, sanh vào cõi trời”; Ta không đồng ý với vị ấy. Nếu vị ấy nói: “Thấy như vậy mới là chánh kiến; ai thấy khác, trí họ đi về nẻo tà”; Ta không đồng ý với vị ấy. Cũng như cố bám vào những sở tri, sở kiến rồi nói một cách cố chấp và một chiều: “Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối”; Ta cũng không đồng ý với vị ấy. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết khác với những người đó.

Này A-nan, nếu là trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Người đó trước kia hoặc đã tạo tác nghiệp bất thiện, tạo tác đã thành, rồi do sự không từ bỏ và không thủ hộ cho nên người đó ở trong đời hiện tại thọ báo đã xong, họ sanh về nơi kia. Hoặc do hậu báo cho nên họ không vì nhân này, duyên này, khi thân hoại mạng chung vẫn đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp thiện, tạo tác đã thành, rồi do sự từ bỏ và thủ hộ chưa tiêu hết nên được thọ báo ở chốn lành; họ do nhân này, duyên này cho nên khi thân hoại mạng chung, đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Hoặc khi chết khởi thiện tâm, các pháp sở hữu của tâm tương ưng với chánh kiến; họ nhờ nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy.

Này A-nan, nếu là trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ lại đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. Hoặc giả, trước kia họ đã tạo tác nghiệp thiện, tạo tác đã thành, rồi do từ bỏ và thủ hộ cho nên người kia trong đời hiện tại thọ báo đã xong, sanh về nơi đó. Hoặc do hậu báo nên họ không vì nhân này, duyên này mà khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh vào địa ngục. Hoặc trước kia họ đã tạo tác nghiệp bất thiện, tạo tác đã thành, rồi do sự không từ bỏ và không thủ hộ chưa tiêu hết nên phải thọ báo ở địa ngục; họ do nhân này, duyên này mà khi thân hoại mạng chung, đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. Hoặc khi chết, họ sanh tâm bất thiện, các pháp sở hữu của tâm tương ưng với tà kiến; do nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy.

Này A-nan, nếu là trường hợp có người không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không từ bỏ và không thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục; họ do chính nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. Hoặc trước kia họ đã tạo tác nghiệp bất thiện, tạo tác đã thành, rồi do sự không từ bỏ và không thủ hộ chưa tiêu hết nên phải thọ báo ở địa ngục; họ do nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. Hoặc khi chết, họ sanh tâm bất thiện, các pháp sở hữu của tâm tương ưng với tà kiến; do nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về nẻo ác, sanh vào địa ngục. A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy.

Này A-nan, nếu là trường hợp có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự từ bỏ và thủ hộ này, khi thân hoại mạng chung, họ đi về chốn lành, sanh vào cõi trời; họ nhờ chính nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Hoặc trước kia họ đã tạo tác nghiệp thiện, tạo tác đã thành, rồi nhờ sự từ bỏ và thủ hộ chưa tiêu hết nên được thọ báo quả này; họ nhờ nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. Hoặc lúc chết, họ sanh tâm thiện, các pháp sở hữu của tâm tương ưng với chánh kiến; do nhân này, duyên này nên khi thân hoại mạng chung, đi về chốn lành, sanh vào cõi trời. A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy.

Lại nữa, có bốn hạng người: Hoặc có người không có mà giống như có, hoặc có mà giống như không có, hoặc không có giống như không có, hoặc có giống như có. Này A-nan, cũng như có bốn loại xoài: Hoặc xoài không chín mà giống như chín, hoặc chín mà giống như không chín, hoặc không chín giống như không chín, hoặc chín giống như chín. Như vậy, A-nan, bốn thứ xoài được thí dụ với người: Hoặc có người không có mà giống như có, hoặc có mà giống như không có, hoặc không có giống như không có, hoặc có giống như có.

Đức Phật nói như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.