Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Bà-kỳ-sấu, ở đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm Câu-lâu. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Ta sẽ nói pháp cho các thầy nghe, pháp ấy vi diệu ở phần đầu, vi diệu ở quảng giữa và đoạn cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh, gọi là Kinh Phân biệt vô tránh. Các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Đức Phật dạy:
– Đừng nên mong cầu dục lạc, dục lạc là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hạnh của phàm phu; cũng đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh. Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, tác thành nhãn, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn; có tán thán, có chỉ trích; có sự không tán thán, không chỉ trích mà nói pháp; quyết định trong giới hạn và sau khi đã biết quyết định, thường tùy cầu sự lạc nào đã có bên trong; đừng nói lời chê bai sau lưng, cũng đừng đối mặt khen ngợi; nói vừa phải chứ đừng quá giới hạn, tùy theo phong tục địa phương, đừng nói phải, đừng nói quấy. Đó là những vấn đề của Kinh Phân biệt vô tránh.
“Đừng nên mong cầu dục lạc, dục lạc là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hạnh của phàm phu; cũng đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Ở đây, “Đừng nên mong cầu dục lạc, dục lạc là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hạnh của phàm phu”, sự kiện này được nói là một cực đoan; “cũng đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh”, đây là một cực đoan thứ hai. Do bởi sự kiện này mà nói: “Đừng nên mong cầu dục lạc, dục lạc là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hạnh của phàm phu; cũng đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh.”
“Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn”, vấn đề này được nói lên với những nguyên nhân nào? Ở đây, có tám chi Thánh đạo, từ chánh kiến cho đến chánh định, gọi là tám. Do bởi sự kiện này mà nói: “Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ và đưa đến Niết-bàn.”
“Có tán thán, có chỉ trích và có sự không tán thán, không chỉ trích mà thuyết pháp”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Sao gọi là tán thán? Sao gọi là chỉ trích mà không nói pháp? Nếu có tương ưng với dục, cùng đi với lạc là nghiệp rất hèn hạ, là hạnh của phàm phu, pháp này rất khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều đó rồi, tự chỉ trích mình. Vì sao? Vì dục là vô thường, là khổ, là pháp hoại diệt. Do biết dục là vô thường, cho nên pháp ấy nhất thiết có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy đã biết điều này, cho nên tự chỉ trích mình. “Tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh.” Pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều đó rồi, tự chỉ trích mình. Vì sao? Vì Sa-môn Phạm chí kia sợ hãi sự khổ nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo. Nhưng Sa-môn Phạm chí này lại ôm ấp khổ này nữa, cho nên vị ấy nhất thiết có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu thuộc tà hạnh. Vị ấy đã biết điều này, cho nên tự chỉ trích mình. “Hữu kiết sử không đoạn tận, pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh.” Vị ấy biết điều đó rồi, tự chỉ trích mình. Vì sao? Vì nếu người nào hữu kiết sử không đoạn tận thì sự hữu kia cũng không bị đoạn tận, cho nên người đó nhất thiết có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy đã biết điều này, cho nên tự chỉ trích mình. “Hữu kiết sử đã đoạn tận, pháp này không có khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh.” Vị ấy đã biết điều này rồi, tự tán thán. Vì sao? Vì nếu người nào hữu kiết sử đoạn tận thì sự hữu kia cũng bị đoạn tận, cho nên người đó nhất thiết không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Vị ấy đã biết điều đó, cho nên tự tán thán. “Không mong cầu sự an lạc bên trong; pháp ấy có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh.” Vị ấy biết điều này rồi, tự chỉ trích mình. Vì sao? Vì nếu người nào không mong cầu sự lạc bên trong, cũng không cầu bên trong, cho nên người đó nhất thiết có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, vị ấy biết điều này rồi, tự chỉ trích mình. “Mong cầu sự lạc bên trong, pháp này không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh.” Vị ấy biết điều đó, cho nên tự tán thán. Vì sao? Vì nếu người nào mong cầu sự lạc bên trong thì cũng mong cầu bên trong. Cho nên người đó nhất thiết, không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Vị ấy biết điều đó, cho nên tự tán thán. Như vậy là “Có tán thán, có chỉ trích mà không thuyết pháp.”
“Không tán thán, không chỉ trích mà thuyết pháp”, sao gọi là “Không tán thán, không chỉ trích mà thuyết pháp”? Nếu có tương ưng với dục, cùng đi với hỷ lạc, là nghiệp rất hèn hạ, là hạnh của phàm phu thì pháp ấy có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều này rồi, liền thuyết pháp. Vì sao? Vị ấy không nói như vầy: “Dục là vô thường, là khổ, là pháp hoại diệt.” Vị ấy đã biết dục là vô thường, cho nên nhất thiết pháp ấy có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều đó, cho nên thuyết pháp. “Tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh.” Pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều này rồi, liền nói pháp. Vì sao vậy? Vị ấy không nói như vầy: “Tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng với lợi ích cứu cánh”, vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều đó cho nên thuyết pháp. Thế nào là hữu kiết sử không đoạn tận? “Hữu kiết sử không đoạn tận, pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu thuộc về tà hạnh.” Vị ấy biết điều này rồi, liền thuyết pháp. Vì sao vậy? Vị ấy không nói như vầy: “Nếu người nào hữu kiết sử không đoạn tận thì sự hữu kia cũng không đoạn tận, cho nên người kia nhất định phải khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh.” Không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy đã biết điều đó cho nên thuyết pháp. “Hữu kiết đã đoạn tận, pháp này không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh.” Vị ấy biết điều này thì liền nói pháp. Vì sao? Vị ấy không nói như vầy: “Nếu người nào hữu kiết sử đã đoạn trừ, sự hữu kia cũng đoạn tận, cho nên người ấy nhất thiết không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh.” Không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp không khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Vị ấy biết điều đó cho nên thuyết pháp.
“Không mong cầu sự lạc bên trong”, pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều này rồi, liền nói pháp. Vì sao vậy? Vị ấy không nói như vầy: “Nếu người nào không mong cầu sự lạc bên trong thì cũng không mong cầu bên trong, cho nên người ấy nhất thiết có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh.” Không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh. Vị ấy biết điều đó, cho nên thuyết pháp. “Mong cầu sự lạc bên trong”, pháp này không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Vị ấy biết điều này rồi, liền thuyết pháp. Vì sao vậy? Vị ấy không nói như vầy: “Nếu người nào có mong cầu sự lạc bên trong thì cũng mong cầu bên trong, cho nên người đó nhất thiết không có khổ, không có phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc chánh hạnh.” Không thấu đạt pháp này, chỉ có pháp không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Vị ấy biết điều đó cho nên thuyết pháp. Như vậy là “Không tán thán, không chỉ trích mà thuyết pháp”, vấn đề đó được nói với nguyên nhân như vậy.
“Quyết định trong giới hạn và sau khi đã biết quyết định, hãy mong cầu sự lạc nào đó đã có bên trong”, vấn đề có tán thán, có chỉ trích, không tán thán, không chỉ trích mà thuyết pháp được nói lên với nguyên nhân nào? Có sự lạc không phải sự lạc của bậc Thánh, là sự lạc của phàm phu, là gốc của bệnh, là gốc của ung nhọt, gốc của mũi tên châm chích, có ăn, có sống chết, không đáng tu, không đáng tập, không đáng phát triển. Ta nói điều ấy không nên tu vậy. Có sự lạc của bậc Thánh, là sự lạc của vô dục, sự lạc của ly dục, sự lạc của tịch tĩnh, là lạc của chánh giác, không ăn, không có sống chết nên tu, nên tập, nên phát triển. Ta nói điều ấy nên tu vậy. Sao gọi là “Có sự lạc không phải sự lạc của bậc Thánh mà là phàm phu lạc, là gốc của bệnh, gốc của ung nhọt, gốc của mũi tên châm chích, có ăn, có sống chết, không nên tu, không nên tập, không nên phát triển. Ta nói điều ấy không nên tu vậy.” Nếu do đặc tính của ngũ dục mà sanh hỷ sanh lạc thì sự lạc ấy là lạc của phàm phu, không phải lạc của bậc Thánh, là gốc của bệnh, là gốc của ung nhọt, gốc của mũi tên châm chích, có ăn, có sống chết, không nên tu, không nên tập, không nên phát triển. Ta nói điều ấy không nên tu vậy. Sao gọi là “Có lạc của bậc Thánh, là lạc của ly dục, lạc của tịch tĩnh, là lạc của chánh giác, không có ăn, không có sống chết nên tu, nên tập, nên phát triển. Ta nói điều ấy nên tu vậy.” Nếu có Tỳ-kheo nào ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến, chứng Thiền thứ tư, thành tựu an trú, sự lạc này là lạc của bậc Thánh, sự lạc của vô dục, là lạc của ly dục, là lạc của tịch tĩnh, là lạc của chánh giác, không ăn, không sống chết nên tu, nên tập, nên phát triển. Ta nói điều ấy nên tu vậy. “Quyết định trong giới hạn, sau khi đã biết quyết định hãy mong cầu sự lạc nào đã có bên trong”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân như vậy.
“Không nên nói lời chê bai sau lưng, cũng không nên đối mặt tán thán”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Có lời nói chê bai sau lưng không chân thật, hư dối, không tương ưng với lợi ích cứu cánh; cũng có lời nói chê bai sau lưng mà chân thật, không hư dối nhưng không tương ưng với lợi ích cứu cánh; có lời nói chê bai sau lưng, chân thật, không hư dối và tương ưng với lợi ích cứu cánh. Trong này, nếu có lời nói chê bai sau lưng, không chân thật, hư dối, không tương ưng với lợi ích cứu cánh; nhất định không nói những lời như vậy. Trong này, nếu có lời nói chê bai sau lưng, mà chân thật, không hư dối, không tương ưng với lợi ích cứu cánh, cũng hãy học đừng nói như vậy. Trong này, nếu có lời nói chê bai sau lưng, chân thật, không hư dối, tương ưng với lợi ích cứu cánh thì hãy biết thời, chánh trí, chánh niệm để cho thành tựu lời nói ấy. Về “Đừng đối mặt tán thán” cũng như vậy. “Đừng nói lời chê bai sau lưng, cũng đừng đối mặt khen ngợi”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân như vậy.
“Nói vừa phải, chứ đừng nói quá giới hạn”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Nói quá giới hạn thì thân phiền nhọc, niệm hay quên, tâm mệt mỏi, tiếng bị hư mà hướng đến trí thì không được tự tại, nói vừa phải thì thân không phiền nhọc, niệm không ưa quên, tâm không mệt mỏi, tiếng nói không bị hư, hướng đến trí thì được tự tại. “Hãy nói vừa phải, đừng nói quá giới hạn”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân như vậy.
“Tùy theo phong tục địa phương, đừng nói phải, đừng nói quấy”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Thế nào là thị và phi tùy theo phong tục địa phương? Địa phương này, nhân gian này, sự việc này, hoặc nói là “cái chậu” hoặc nói là “cái khay”, hoặc nói là “cái ô”, hoặc nói là “cái chén”, hoặc nói là “đồ đạc”; tùy theo địa phương đó, theo nhân gian đó mà nói là “cái chậu”, hay nói là “cái khay”, hay nói là “cái ô”, hay nói là “cái chén”, hay nói là “đồ đạc.” Mỗi nơi tùy theo khả năng mà nói một mực rằng: “Đây là sự thực, ngoài ra là hư dối.” Như vậy, đó là thị và phi tùy theo phong tục địa phương vậy.
Sao gọi là “Tùy theo phong tục địa phương không phải, không quấy?” Địa phương này, nhân gian này, sự việc này, hoặc nói là “cái chậu” hoặc nói là “cái khay”, hoặc nói là “cái ô”, hoặc nói là “cái chén”, hoặc nói là “đồ đạc.” Và ở địa phương kia, nhân gian kia, sự việc kia, hoặc nói là “cái chậu” hoặc nói là “cái khay”, hoặc nói là “cái ô”, hoặc nói là “cái chén”, hoặc nói là “đồ đạc.” Với sự việc này hay sự việc kia, không tùy khả năng, không nói với một mực rằng: “Đây là sự thật, ngoài ra hư dối.” Như vậy là tùy phong tục địa phương không phải, không quấy. “Tùy phong tục địa phương, đừng nói phải, đừng nói quấy”, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân như vậy.
“Pháp hữu tránh và pháp vô tránh”, sao gọi là pháp hữu tránh, sao gọi là pháp vô tránh? Nếu có tương ưng với dục, cùng đi với hỷ lạc, nghiệp rất hèn hạ, là hạnh phàm phu; pháp này gọi là hữu tránh. Vì những sự kiện gì mà pháp này gọi là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, cho nên pháp này là hữu tránh. Nếu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng lợi ích cứu cánh thì pháp này gọi là hữu tránh. Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp này gọi là hữu tránh. Nếu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không tương ưng lợi ích cứu cánh thì pháp này gọi là hữu tránh. Vì những sự kiện gì mà pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên pháp này là hữu tránh. Xa lìa hai cực đoan ấy, thời có trung đạo, tác thành nhãn, tác thành trí tự tại, thành định đưa đến trí tuệ, đưa đến giác ngộ và Niết-bàn, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh. Cho nên nói pháp này là vô tránh. Hữu kiết sử mà không đoạn tận, pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh nên nói pháp này là hữu tránh. Hữu kiết sử diệt tận, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên pháp này là vô tránh. Không mong cầu nội lạc, pháp ấy là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà gọi pháp ấy là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh nên nói pháp này là hữu tránh. Mong cầu ở nội lạc, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện gì mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên pháp này là vô tránh. Trong đó, nếu có sự lạc nào không phải là sự lạc của bậc Thánh mà là phàm phu lạc, là gốc của bệnh, gốc của ung nhọt, gốc của mũi tên châm chích, có ăn, có sống chết, không nên tu, không nên tập, không nên phát triển. Ta nói pháp ấy không nên tu thì pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, cho nên pháp này là hữu tránh. Trong đó, nếu có sự lạc nào là lạc của bậc Thánh, lạc của vô dục, lạc do ly dục, lạc của tịch tịnh, của chánh giác, không ăn, không có sống chết nên tu, nên tập, nên phát triển. Ta nói pháp ấy nên tu thì pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên nói pháp này là vô tránh. Trong đó nếu có nói lời chê bai sau lưng mà không chân thật, hư dối, không tương ưng với lợi ích cứu cánh thì pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu tránh. Trong đó, nếu có nói lời chê bai sau lưng mà chân thật, không hư dối, không tương ưng với lợi ích cứu cánh thì pháp ấy là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này là khổ, phiền lao, nhiệt não, ưu sầu, thuộc tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu tránh. Trong đó, nếu có nói lời chê bai sau lưng, chân thật, không hư dối, tương ưng với lợi ích cứu cánh. Pháp ấy là pháp vô tránh. Vì sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên pháp ấy là vô tránh. Không nói vừa phải, pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu tránh. Nói vừa phải, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên pháp này là vô tránh. Thị và phi theo phong tục địa phương, pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc tà hạnh, cho nên pháp này là hữu tránh. Tùy phong tục địa phương, không phải, không quấy, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho nên pháp này là vô tránh.
Đó gọi là tránh pháp, các thầy nên biết, pháp tránh và pháp vô tránh. Đã biết pháp tránh và pháp vô tránh thì nên xả bỏ pháp tránh, tu tập pháp vô tránh. Các thầy cần phải học như vậy.
Như vậy, thiện nam tử Tu-bồ-đề do đạo vô tránh mà về sau biết được pháp như pháp:
Biết pháp như chân thật,
Tu-bồ-đề thuyết kệ,
Thực hành chân không này,
Bỏ đây, trú tịch tịnh.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.