Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

165. KINH ÔN TUYỀN LÂM THIÊN
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa.

Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương Xá, tại Ôn Tuyền lâm. Bấy giờ, đêm gần tàn, trời sắp sáng, Tôn giả Tam-di-đề từ phòng bước ra, đi đến Ôn Tuyền, cởi y để trên bờ, rồi xuống hồ Ôn Tuyền mà tắm. Sau khi tắm xong, Tôn giả lên bờ, lấy khăn lau mình và mặc y vào. Bấy giờ, có một vị thiên thần thân hình rất đẹp, sắc tướng uy nghi, nhằm lúc trời sắp rạng đông, đi đến chỗ Tôn giả Tam-di-đề, cúi đầu đảnh lễ Tôn giả rồi đứng qua một bên. Vị thiên thần đó với sắc tướng uy thần cực diệu, làm sáng chói khắp cả bờ hồ Ôn Tuyền.

Sau khi đứng qua một bên, thiên thần bạch với Tôn giả Tam-di-đề rằng:

– Này Tỳ-kheo, thầy có ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế chăng?

Tôn giả Tam-di-đề trả lời vị thiên thần kia rằng:

– Tôi không có ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế.

Rồi Tôn giả hỏi lại thiên thần:

– Nhưng ngài có ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế chăng?

Thiên thần trả lời:

– Tôi cũng không ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế.

Tôn giả Tam-di-đề lại hỏi vị thiên thần kia:

– Ai ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế?

Thiên thần kia đáp:

– Đức Thế Tôn đang du hóa trong thành Vương Xá này, tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa; chính Ngài có ghi nhớ bài kệ Bạt-địa-la-đế. Này Tỳ-kheo, thầy nên đến gặp Thế Tôn và từ Ngài mà ghi nhớ và thuộc kỹ, thọ trì bài kệ Bạt-địa-lađế. Vì sao vậy? Vì bài kệ Bạt-địa-la-đế đó có pháp, có nghĩa, là căn bản của Phạm hạnh, đưa đến trí tuệ, đưa đến giác ngộ và đưa đến Niết-bàn. Một thiện nam tử chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, cần phải khéo thọ trì đọc tụng bài kệ Bạt-địa-la-đế này.

Thiên thần kia nói như vậy, và sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân của Tôn giả Tam-di-đề, nhiễu quanh Tôn giả ba vòng rồi biến mất khỏi chỗ đó. Sau khi thiên thần biến không lâu, Tôn giả Tam-di-đề đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên và bạch:

– Bạch đức Thế Tôn, hôm nay khi trời sắp sáng, con ra khỏi phòng, đi đến hồ Ôn Tuyền kia, cởi y để trên bờ rồi xuống hồ tắm rửa. Sau khi tắm xong, con lên bờ và lau mình. Bấy giờ, có một vị thiên thần thân hình rất đẹp, sắc tướng uy nghi, vào lúc trời sắp sáng, đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ rồi đứng qua một bên. Vị thiên thần ấy, với sắc tướng uy thần cực diệu, làm sáng chói khắp cả bờ hồ Ôn Tuyền. Sau khi đứng qua một bên, nói với con rằng:

– Này Tỳ-kheo, thầy có thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế chăng?

Con trả lời thiên thần ấy rằng:

– Tôi không có thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế.

Rồi con hỏi lại:

– Ngài có thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế chăng?

Thiên thần trả lời:

– Tôi cũng không thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế.

Con lại hỏi:

– Vậy ai thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế?

Thiên thần trả lời:

– Đức Thế Tôn đang du hóa trong thành Vương Xá này, tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa; chính Ngài thọ trì bài kệ Bạt-địa-la-đế này. Này Tỳ-kheo, thầy nên đến gặp đức Thế Tôn và từ nơi Ngài mà ghi nhớ và thuộc kỹ bài kệ Bạt-địala-đế. Vì sao vậy? Vì bài kệ Bạt-địa-la-đế ấy có nghĩa, có pháp, là căn bản của Phạm hạnh, đưa đến trí tuệ, đưa đến giác ngộ và đưa đến Niết-bàn. Một thiện nam tử chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, cần phải khéo thọ trì, đọc tụng bài kệ Bạt-địa-la-đế này.” Vị thiên thần kia nói như vậy, và sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân con, nhiễu quanh ba vòng rồi biến mất khỏi chỗ đó.

Đức Thế Tôn hỏi:

– Này Tam-di-đề, thầy có biết vị thiên thần kia từ đâu đến chăng? Vị thiên thần kia tên là gì chăng?

Tôn giả Tam-di-đề đáp:

– Bạch Thế Tôn, con không biết vị thiên thần kia từ đâu đến, cũng không biết tên gì.

Đức Thế Tôn bảo:

– Này Tam-di-đề, vị thiên thần kia tên là Chánh Điện, làm tướng quân ở cõi Tam Thập Tam thiên.

Khi ấy, Tôn giả Tam-di-đề bạch:

– Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng lúc! Bạch Thiện Thệ, nay thật là đúng lúc! Nếu Thế Tôn nói cho Tỳ-kheo bài kệ Bạt-địa-la-đế ấy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn nói, sẽ ghi nhớ kỹ.

Đức Thế Tôn bảo:

– Này Tam-di-đề, hãy nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói cho thầy nghe! Tôn giả Tam-di-đề bạch:

– Xin vâng, bạch Thế Tôn!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời chỉ giáo và lắng nghe. Đức Thế Tôn đọc bài tụng:

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ,
Tương lai cũng chớ mong cầu,
Quá khứ đã qua, đã mất,
Tương lai chưa đến, còn xa.
Hiện tại những gì đang có,
Thì nên quán sát suy tư,
Niệm niệm mong manh, không chắc,
Người trí biết vậy nên tu.
Nếu có làm theo hạnh Thánh,
Ai hay nỗi chết ưu sầu?
Nhất định tránh xa sự chết,
Hiểm nguy, khổ lớn, dứt trừ.
Như vậy thực hành tinh tấn,
Ngày đêm không chút biếng lười,
Vì vậy phải thường tụng đọc,
Bạt-địa-la-đế kệ này.

Sau khi nói bài kệ như vậy, đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất và tĩnh tọa.

Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo liền nghĩ rằng: “Này chư Hiền, nên biết đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt giáo nghĩa, không phân biệt rộng rãi, rồi Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất và nhập định.

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ,
Tương lai cũng chớ mong cầu,
Quá khứ đã qua, đã mất,
Tương lai chưa đến, còn xa.
Hiện tại những gì đang có,
Thì nên quán sát suy tư,
Niệm niệm mong manh, không chắc,
Người trí biết vậy nên tu.
Nếu có làm theo hạnh Thánh,
Ai hay nỗi chết, ưu sầu?
Nhất định tránh xa sự chết,
Hiểm nguy, khổ lớn, dứt trừ.
Như vậy thực hành tinh tấn,
Ngày đêm không chút biếng lười,
Vì vậy phải thường tụng đọc,
Bạt-địa-la-đế kệ này.”

Họ lại nghĩ rằng: “Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi giáo nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói một cách vắn tắt đó?” Rồi họ lại nghĩ như thế này: “Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, thường được đức Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói cho chúng ta một cách vắn tắt đó. Này chư Hiền, chúng ta hãy cùng nhau đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, thỉnh cầu ngài nói nghĩa này. Nếu Tôn giả Đại Ca-chiên-diên phân biệt cho chúng ta, chúng ta sẽ khéo thọ trì.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi xuống một bên và thưa:

– Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, nên biết giáo nghĩa này mà đức Thế Tôn chỉ nói một cách vắn tắt, chớ không phân biệt rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa:

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ,
Tương lai cũng chớ mong cầu,
Quá khứ đã qua, đã mất,
Tương lai chưa đến, còn xa.
Hiện tại những gì đang có,
Thì nên quán sát suy tư,
Niệm niệm mong manh, không chắc,
Người trí biết vậy nên tu.
Nếu có làm theo hạnh Thánh,
Ai hay nỗi chết ưu sầu?
Nhất định tránh xa sự chết,
Hiểm nguy, khổ lớn, dứt trừ.
Như vậy thực hành tinh tấn,
Ngày đêm không chút biếng lười,
Vì vậy phải thường tụng đọc,
Bạt-địa-la-đế kệ này.

Chúng tôi mới nghĩ như vầy: “Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói một cách vắn tắt ấy?” Chúng tôi lại nghĩ: “Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên là người thường được Thế Tôn và các bậc Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên mới có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói cho chúng tôi một cách vắn tắt.” Cúi xin Tôn giả Đại Ca-chiên-diên vì lòng từ mẫn mà nói nghĩa ấy một cách rộng rãi.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bảo:

– Này chư Hiền, hãy nghe tôi nói ví dụ này! Nếu người có trí tuệ nghe qua sẽ hiểu ý nghĩa ấy ngay.

Này chư Hiền, ví như có người muốn tìm lõi cây. Vì muốn tìm lõi cây nên người kia cầm búa vào rừng. Người ấy thấy một gốc cây đại thọ mà rễ cây, thân cây, cành, nhánh, lá, hoa đã thành sum sê; nhưng không đụng đến cây, thân cây hay cành cây, mà chỉ đụng nhánh và lá. Những điều chư Hiền nói cũng giống như vậy. Thế Tôn đang ở đây, nhưng chư Hiền lại bỏ Ngài, lại đến tôi mà hỏi ý nghĩa ấy. Vì sao vậy? Này chư Hiền, nên biết đức Thế Tôn là bậc Có Mắt, là bậc Có Trí, Ngài là Nghĩa, là Pháp, là Pháp Chủ, Pháp tướng, thuyết chân thật nghĩa, hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó, này chư Hiền, hãy đi đến đức Thế Tôn mà hỏi ý nghĩa này rằng: “Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa là gì?” Sau khi nghe Thế Tôn đã nói, chư Hiền sẽ y theo đó, khéo léo thọ trì.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo lại bạch:

– Thật vậy, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên! Đức Thế Tôn là bậc Có Mắt, là bậc Có Trí, Ngài là Nghĩa, là Pháp Chủ, là Pháp tướng, thuyết chân thật nghĩa, hiển hiện tất cả nghĩa. Đáng lẽ chúng tôi phải đến đức Thế Tôn mà hỏi ý nghĩa này rằng: “Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa gì?” Sau khi nghe đức Thế Tôn nói, chúng tôi sẽ y theo đó, khéo léo thọ trì. Nhưng Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thường được Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt. Mong Tôn giả Đại Ca-chiên-diên vì lòng từ mẫn mà nói nghĩa ấy một cách rộng rãi!

Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bảo các Tỳ-kheo:

– Này chư Hiền, nếu vậy xin hãy nghe tôi nói. Này chư Hiền, thế nào là Tỳ-kheo truy niệm quá khứ? Này chư Hiền, Tỳ-kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, khả ý, khả niệm, tâm tương ưng với dục ái sắc, tâm truy tìm nguồn gốc, nguồn gốc tức quá khứ vậy. Vị ấy bị thức quá khứ nhiễm trước dục; do thức nhiễm trước dục, vị ấy hoan lạc; do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi và thân cũng vậy. Quả thật có pháp được biết bởi ý, khả hỷ, khả ý, khả niệm, tâm tương ưng với dục ái pháp, tâm truy tìm nguồn gốc, nguồn gốc tức quá khứ vậy. Vị ấy bị thức quá khứ nhiễm trước dục; do thức nhiễm trước dục, vị ấy hoan lạc; do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ. Như vậy, đó là Tỳ-kheo truy niệm quá khứ.

Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không truy niệm quá khứ? Này chư Hiền, Tỳ-kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả ý, khả hỷ, khả niệm, tâm tương ưng với dục ái sắc, truy tìm nguồn gốc, nguồn gốc tức quá khứ vậy. Nơi vị ấy, thức quá khứ không bị nhiễm trước dục; do thức không bị nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi đó; do không hoan lạc nơi đó nên không truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Quả thật có pháp được biết bởi ý, khả hỷ, khả ý, khả niệm, tâm tương ưng với dục ái pháp, tâm truy tìm nguồn gốc, nguồn gốc tức quá khứ vậy. Thức vị ấy không bị nhiễm trước dục; do không nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi đó; do không hoan lạc nơi đó nên không truy niệm quá khứ. Này chư Hiền, như vậy là Tỳ-kheo không truy niệm quá khứ.

Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo mong ước vị lai? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có nhãn sắc và nhãn thức; đối với vị lai, những gì chưa được thì muốn được, đã được rồi thì tâm mong ước; do tâm mong ước nên hoan lạc nơi đó; do hoan lạc nên mong ước vị lai. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng như vậy. Đối với vị lai, những gì chưa được thì muốn được, đã được thì tâm mong ước; do tâm mong ước nên tâm hoan lạc nơi đó; do hoan lạc nên mong ước vị lai. Này chư Hiền, như vậy là Tỳ-kheo mong ước vị lai.

Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không mong ước vị lai? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có nhãn sắc và nhãn thức; đối với vị lai, những gì chưa được thì không muốn được, được rồi thì tâm không mong ước; do tâm không mong ước nên không hoan lạc nơi đó; không hoan lạc nơi đó nên không mong ước vị lai. Này chư Hiền, như vậy gọi là Tỳ-kheo không mong ước vị lai.

Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo chấp thủ pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có nhãn sắc và nhãn thức; đối với hiện tại, vị ấy có thức hiện tại bị nhiễm trước dục; do thức bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy; do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Nếu có ý pháp và ý thức; đối với hiện tại, vị ấy có thức hiện tại bị nhiễm trước dục; do bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy; do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện tại. Này chư Hiền, như vậy là Tỳ-kheo chấp thủ pháp hiện tại.

Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không chấp thủ pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có nhãn sắc và nhãn thức; đối với hiện tại, vị ấy có thức hiện tại không bị nhiễm trước dục; do thức không bị nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi đó; do không hoan lạc nên không chấp thủ pháp hiện tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Nếu có ý pháp và ý thức; đối với hiện tại, vị ấy có thức hiện tại không bị nhiễm trước dục; do thức không bị nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi đó; do không hoan lạc nên không chấp thủ pháp hiện tại. Này chư Hiền, như vậy là Tỳ-kheo không chấp thủ pháp hiện tại.

Này chư Hiền, phần này được Thế Tôn nói vắn tắt, không phân biệt một cách rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa:

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ,
Tương lai cũng chớ mong cầu,
Quá khứ đã qua, đã mất,
Tương lai chưa đến, còn xa.
Hiện tại những gì đang có,
Thì nên quán sát suy tư,
Niệm niệm mong manh, không chắc,
Người trí biết vậy nên tu.
Nếu có làm theo hạnh Thánh,
Ai hay nỗi chết ưu sầu?
Nhất định tránh xa sự chết,
Hiểm nguy, khổ lớn, dứt trừ.
Như vậy thực hành tinh tấn,
Ngày đêm không chút biếng lười,
Vì vậy phải thường tụng đọc,
Bạt-địa-la-đế kệ này.


Phần này được Thế Tôn nói vắn tắt mà không phân biệt một cách rộng rãi. Tôi bằng những câu này, những văn này mà nói một cách rộng rãi như vậy đó. Này chư Hiền, có thể đến trình bày đầy đủ lên đức Phật. Nếu đức Thế Tôn có nói ý nghĩa như thế nào, chư Hiền hãy thọ trì.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe những lời Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói, khéo léo thọ trì, đọc tụng, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả Đại Cachiên-diên ba vòng rồi đi ra. Họ đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một bên mà bạch:

– Bạch Thế Tôn, trước đây đức Thế Tôn đã nói điều này vắn tắt, không phân biệt một cách rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất tĩnh tọa. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bằng những câu này, văn này mà nói ý nghĩa một cách rộng rãi.

Đức Thế Tôn nghe xong liền khen:

– Hay thay! Hay thay! Trong đệ tử của Ta, có bậc có mắt, có trí, có pháp, có nghĩa. Vì sao vậy? Tôn sư nói vắn tắt giáo pháp này, không phân biệt một cách rộng rãi; và đệ tử bằng những văn này, những câu này, nói nghĩa ấy một cách rộng rãi. Như những gì Tỳ-kheo Đại Ca-chiên-diên đã nói, các thầy nên như thế mà thọ trì. Vì sao vậy? Vì nói và quán nghĩa nên như vậy.

Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.