Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

163. KINH PHÂN BIỆT LỤC XỨ

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ thuyết pháp cho các thầy, phần đầu thiện, phần giữa thiện và phần cuối cũng thiện, có nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh. Đó là Kinh Phân biệt về sáu xứ. Các thầy hãy lắng nghe, khéo suy tư và ghi nhớ.

Nghe vậy, các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn, chúng con xin vâng lời! Đức Phật bảo:

– Này các Tỳ-kheo, sáu xứ bên trong cần phải biết; sáu xúc xứ bên trong cần phải biết; mười tám ý hành bên trong cần phải biết; ba mươi sáu đao kiếm bên trong cần phải biết; trong đó, đoạn trừ những cái ấy, thành tựu như vậy; thuyết pháp vô lượng ở bên trong cần phải biết; ba ý chỉ, những điều mà bậc Thánh phải tu tập, sau khi tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng; đó là bậc Vô Thượng Điều Ngự, bậc Điều Ngự thú hướng đến mọi phương. Như vậy là phân biệt sáu xứ.

Nói rằng: “Sáu xứ bên trong cần phải biết” là do nhân gì mà nói như thế? Là nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ. Nói rằng: “Sáu xứ bên trong cần phải biết” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Sáu xúc xứ bên trong cần phải biết” là do nhân gì mà nói như vậy? Là nhãn xúc thì thấy sắc, nhĩ xúc thì nghe tiếng, tỷ xúc thì ngửi mùi, thiệt xúc thì nếm vị, thân xúc thì cảm giác, ý xúc thì biết pháp. Nói rằng: “Sáu xúc xứ bên trong cần phải biết” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Mười tám ý hành bên trong cần phải biết” là do nhân gì mà nói như vậy? Là Tỳ-kheo mắt đã thấy sắc rồi phân biệt sắc mà an trú nơi hỷ, phân biệt sắc mà an trú nơi ưu, phân biệt sắc mà an trú nơi xả. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ý đã biết pháp rồi phân biệt pháp mà an trú nơi hỷ, phân biệt pháp mà an trú nơi ưu, phân biệt pháp mà an trú nơi xả. Như vậy, khi phân biệt có sáu trường hợp hỷ, khi phân biệt có sáu trường hợp ưu, khi phân biệt có sáu trường hợp xả, tổng cộng là mười tám ý hành. Nói rằng: “Mười tám ý hành bên trong cần phải biết” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Ba mươi sáu loại đao kiếm bên trong cần phải biết” là do nhân gì mà nói như vậy? Có sáu hỷ y trên đam mê, có sáu hỷ y trên vô dục; có sáu ưu y trên đam mê, có sáu ưu y trên vô dục; có sáu xả y trên đam mê, có sáu xả y trên vô dục.

Thế nào là sáu hỷ y trên đam mê? Thế nào là sáu hỷ y trên vô dục? Mắt thấy sắc rồi phát sanh hỷ, nên có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là hỷ y trên đam mê? Sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, khả ý, khả niệm, khả ái, sắc ái lạc tương ưng với lạc, dục; cái chưa được thì muốn được, cái đã được thì truy ức, rồi phát sanh hỷ. Hỷ như vậy gọi là hỷ y trên đam mê. Thế nào là hỷ y trên vô dục? Biết sắc vô thường, biến dịch nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là pháp vô thường, khổ, hoại diệt, truy ức như vậy rồi phát sanh hỷ. Hỷ như vậy gọi là hỷ y trên vô dục. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ý nhận thức pháp rồi sanh hỷ, nên biết có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là hỷ y trên đam mê? Pháp được biết bởi ý, khả hỷ, khả ý, khả niệm, pháp ái lạc tương ưng với dục; cái chưa được thì muốn được, đã được thì truy ức, rồi phát sanh hỷ. Hỷ như vậy gọi là hỷ y trên đam mê. Thế nào gọi là hỷ y trên vô dục? Biết pháp là vô thường, biến dịch nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết tất cả pháp trước kia và bây giờ đều là vô thường, khổ, hoại diệt, truy ức như vậy rồi phát sanh hỷ. Hỷ ấy gọi là hỷ y trên vô dục.

Thế nào là sáu ưu y trên đam mê? Thế nào là sáu ưu y trên vô dục? Mắt thấy sắc rồi phát sanh ưu, nên biết có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là ưu y trên đam mê? Sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, khả ý, khả niệm, sắc ái lạc tương đương với dục; cái chưa được mà không được, đã được nhưng trong quá khứ bị phân tán, hoại diệt, biến dịch nên sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên đam mê. Thế nào gọi là ưu y trên vô dục? Biết sắc là pháp vô thường, khổ, hoại diệt nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là pháp vô thường, khổ, hoại diệt; truy ức như vậy rồi nghĩ rằng: “Ta lúc nào thì thành tựu, an trú nơi xứ mà các bậc Thánh đã thành tựu, an trú?” Do ước nguyện chứng nhập tối thượng ấy mà lo sợ, sầu khổ, nên phát sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên vô dục. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ý nhận thức pháp phát sanh ưu, nên biết có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là ưu y trên đam mê? Pháp được biết bởi ý, khả hỷ, khả ý, khả niệm, pháp ái lạc tương ưng với dục; cái chưa được mà không được, cái đã được nhưng trong quá khứ đã bị phân tán, hoại diệt, biến dịch nên sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên đam mê. Thế nào là ưu y trên vô dục? Biết pháp là vô thường, biến dịch nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết tất cả pháp trước kia và bây giờ đều vô thường, khổ, hoại diệt; truy ức như vậy rồi nghĩ rằng: “Ta lúc nào thì thành tựu, an trú vào xứ mà các bậc Thánh đã thành tựu, an trú?” Do ước nguyện chứng nhập tối thượng ấy mà lo sợ, sầu khổ, nên phát sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên vô dục.

Thế nào là sáu xả y trên đam mê? Thế nào là sáu xả y trên vô dục? Mắt thấy sắc phát sanh xả, nên biết có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là xả y trên đam mê? Mắt thấy sắc rồi phát sanh xả; phàm phu ngu si hoàn toàn không đa văn, không trí tuệ, đối với sắc có xả, nhưng không xuất ly sắc. Đó là xả y trên đam mê. Thế nào là xả y trên vô dục? Biết sắc vô thường, biến dịch nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là vô thường, khổ, hoại diệt; truy ức như vậy rồi an trú nơi xả. Nếu vị nào dốc lòng tu tập xả như thế, đó là xả y trên vô dục. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ý nhận thức pháp, phát sanh xả, nên biết rằng có hai loại, hoặc y trên đam mê, hoặc y trên vô dục. Thế nào là xả y trên đam mê? Ý nhận thức pháp sanh xả; phàm phu ngu si hoàn toàn không đa văn, không trí tuệ, đối với pháp có xả, nhưng không xuất ly pháp. Đó là xả y trên đam mê. Thế nào là xả y trên vô dục? Ý biết pháp là vô thường, biến dịch nên dứt sạch, vô dục, tịch diệt, tịch tịnh; biết pháp trước kia và bây giờ là vô thường, khổ, hoại diệt; truy ức như vậy rồi an trú nơi xả. Ai dốc lòng tu tập xả ấy thì đó là xả y trên vô dục.

Như vậy là sáu hỷ y trên đam mê, sáu hỷ y trên vô dục; sáu ưu y trên đam mê, sáu ưu y trên vô dục; sáu xả y trên đam mê, sáu xả y trên vô dục, tổng cộng là ba mươi sáu thứ đao kiếm bên trong cần phải biết. Do nhân đó mà nói như thế.

Nói rằng: “Trong đó, đoạn trừ chúng, thành tựu như thế” là do nhân gì mà nói như vậy? Đối với sáu hỷ y trên vô dục này, hãy thủ lấy chúng, y trên chúng, trú nơi chúng; còn đối với sáu hỷ y trên đam mê ấy thì hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Đối với sáu ưu y trên vô dục này, hãy thủ lấy chúng, y trên chúng, trú nơi chúng; còn đối với sáu ưu y trên đam mê ấy thì hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Đối với sáu xả y trên vô dục này, hãy thủ lấy chúng, y trên chúng, trú nơi chúng; còn đối với sáu xả y trên đam mê ấy thì hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Đối với sáu ưu y trên vô dục này, hãy thủ lấy chúng, y trên chúng, trú nơi chúng; còn đối với sáu hỷ y trên đam mê này, hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Đối với sáu xả y trên vô dục, hãy thủ lấy chúng, y trên chúng, trú nơi chúng; còn đối với sáu ưu y trên đam mê này, hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng.

Có loại xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc; có loại xả chỉ có một xúc, không sai biệt xúc. Thế nào là xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc? Nếu xả đối với sắc, đối với thanh, đối với hương, đối với vị, đối với xúc thì xả ấy có vô lượng xúc, sai biệt xúc. Thế nào là xả chỉ có một xúc, không sai biệt xúc? Là xả hoặc y vào Vô lượng không xứ, hoặc y vào Vô lượng thức xứ, hoặc y vào Vô sở hữu xứ, hoặc y vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ thì xả ấy chỉ có một xúc, không sai biệt xúc. Đối với xả có một xúc, không sai biệt xúc, hãy thủ lấy, y vào đó, trú vào đó. Đối với xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc, hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Thủ vô lượng, trú vô lượng, tức là đối với xả có một xúc, không sai biệt xúc, hãy thủ lấy, y vào, trú vào. Đối với xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc, hãy hủy diệt chúng, đoạn trừ chúng, phế thải chúng. Như vậy là đoạn trừ chúng. Nói rằng: “Trong đó, đoạn trừ chúng, thành tựu như thế” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Thuyết pháp vô lượng ở bên trong, cần phải biết” là do nhân gì mà nói như thế? Như Lai có bốn hạng đệ tử, có tăng thượng hành, tăng thượng ý, tăng thượng niệm, tăng thượng huệ, có biện tài, thành tựu biện tài bậc nhất, thọ đến một trăm tuổi. Như Lai thuyết pháp cho các đệ tử suốt cả một trăm năm, ngoại trừ lúc ăn, lúc uống, lúc đại tiểu tiện, lúc ngủ nghỉ và lúc tụ hội. Như Lai thuyết pháp có văn cú, pháp cú, muốn quán nghĩa, các đệ tử dùng tuệ quán một cách nhanh chóng, không có hỏi lại Như Lai về pháp nữa. Vì sao? Vì pháp được Như Lai giảng thuyết không có giới hạn, không thể cùng tận, có văn cú, pháp cú, để quán nghĩa cho đến lúc bốn hạng đệ tử lâm chung. Cũng như bốn hạng người bắn giỏi, cùng kéo mạnh dây cung mà bắn một lượt là do khéo học, khéo tập, có phương tiện thấu rõ quá khứ. Cũng vậy, Thế Tôn có bốn hạng đệ tử, có tăng thượng hành, tăng thượng ý, tăng thượng niệm, tăng thượng huệ, có biện tài, thành tựu biện tài bậc nhất, thọ đến một trăm tuổi. Như Lai thuyết pháp cho các đệ tử suốt một trăm năm, ngoại trừ lúc ăn uống, lúc đại tiểu tiện, lúc ngủ nghỉ và lúc tụ hội. Như Lai thuyết pháp có văn cú, pháp cú, muốn quán nghĩa thì dùng tuệ quán một cách nhanh chóng, đệ tử không hỏi lại Như Lai về pháp nữa. Vì sao? Vì pháp được Như Lai giảng thuyết không giới hạn, không cùng tận. Nói rằng: “Thuyết pháp vô lượng ở bên trong, cần phải biết” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Ba ý chỉ là pháp mà bậc Thánh tu tập, sau khi tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng” là do nhân gì mà nói như thế? Như Lai thuyết pháp cho đệ tử là vì thương tưởng, mến yêu, vì mưu cầu thiện lợi và hữu ích, an ổn và khoái lạc, phát khởi tâm từ bi mà bảo rằng: “Đây là hữu ích, đây là khoái lạc, đây là hữu ích khoái lạc.” Nếu các đệ tử không cung kính, không thực hành, không vững chánh trí, tâm không hướng đến pháp tùy, pháp hành, không thọ Chánh pháp, làm trái lời Thế Tôn, không thể đắc định thì Thế Tôn không vì thế mà buồn rầu; Thế Tôn chỉ xả, không dao động, thường chánh niệm, chánh trí. Đó là ý chỉ thứ nhất mà bậc Thánh tu tập, sau khi đã tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng.

Lại nữa, Như Lai thuyết pháp cho đệ tử vì thương tưởng, mến yêu, vì mưu cầu thiện lợi hữu ích, an ổn và khoái lạc, phát khởi tâm từ bi mà nói rằng: “Đây là hữu ích, đây là khoái lạc, đây là hữu ích khoái lạc.” Nếu các đệ tử cung kính, thực hành theo chánh trí, tâm hướng đến pháp tùy, pháp hành, thọ trì Chánh pháp, không trái lời Thế Tôn, đắc định thì Thế Tôn cũng không vì thế mà hoan hỷ; Thế Tôn chỉ xả, không dao động, thường chánh niệm, chánh trí. Đó là ý chỉ thứ hai mà bậc Thánh tu tập, sau khi đã tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng.

Lại nữa, Như Lai thuyết pháp cho đệ tử vì thương tưởng, mến yêu, vì mưu cầu thiện lợi hữu ích, an ổn và khoái lạc, phát khởi tâm từ bi mà bảo rằng: “Đây là hữu ích, đây là khoái lạc, đây là hữu ích khoái lạc.” Nếu các đệ tử không cung kính, cũng không thực hành, không vững chánh trí, tâm không hướng đến pháp tùy, pháp hành, không thọ trì Chánh pháp, trái lời Thế Tôn, không thể đắc pháp; trái lại có đệ tử cung kính, thực hành vững chánh trí, tâm quy hướng đến pháp tùy, pháp hành, thọ trì Chánh pháp, không trái lời Thế Tôn, đắc định thì Thế Tôn cũng không vì thế mà buồn rầu hay hoan hỷ; Thế Tôn chỉ xả, không dao động, thường chánh niệm, chánh trí. Đó là ý chỉ thứ ba mà bậc Thánh tu tập, sau khi đã tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng.

Nói rằng: “Ba ý chỉ mà bậc Thánh phải tu tập, sau khi tu tập mới có thể giáo hóa đồ chúng” là nhân đó mà nói.

Nói rằng: “Bậc Vô Thượng Điều Ngự là bậc Điều Ngự thú hướng mọi phương” do nhân gì mà nói như vậy? Bậc Điều Ngự, đó là nói đến bậc Điều Ngự chỉ thú hướng một phương, hoặc phương Đông, hoặc phương Nam, hoặc phương Tây, hoặc phương Bắc. Chẳng hạn như điều ngự voi là vị điều ngự chỉ dẫn con voi đến một phương, hoặc phương Đông, hoặc phương Nam, hoặc phương Tây, hoặc phương Bắc; điều ngự ngựa là vị điều ngự chỉ dẫn con ngựa đến một phương, hoặc phương Đông, hoặc phương Nam, hoặc phương Tây, hoặc phương Bắc; điều ngự bò là vị điều ngự chỉ dẫn con bò đến một phương, hoặc phương Đông, hoặc phương Nam, hoặc phương Tây, hoặc phương Bắc. Trái lại, Vô Thượng Điều Ngự thú hướng đến mọi nơi. Trong đó, phương có sắc thì quán sắc; đó là phương thứ nhất. Bên trong không có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc; đó là phương thứ hai. Thanh tịnh, giải thoát, thân chứng thành tựu, an trú; đó là phương thứ ba. Vượt qua mọi sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không nghĩ đến các loại tưởng sai biệt, nhập Vô lượng không, thành tựu và an trú Vô lượng không xứ; đó là phương thứ tư. Vượt qua mọi Vô lượng không xứ, nhập Vô lượng thức, thành tựu an trú Vô lượng thức xứ; đó là phương thứ năm. Vượt qua mọi Vô lượng thức xứ, nhập Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú Vô sở hữu xứ; đó là phương thứ sáu. Vượt qua mọi Vô sở hữu xứ, nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú; đó là phương thứ bảy. Vượt qua mọi Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, tưởng và thọ đã diệt tận, thân chứng thành tựu an trú, do tuệ quán mà được trí lậu tận, vĩnh viễn đoạn trừ; đó là phương thứ tám. Nói rằng: “Bậc Vô Thượng Điều Ngự là vị Điều Ngự thú hướng đến mọi phương” là nhân đó mà nói.

Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.