Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

162. KINH PHÂN BIỆT LỤC GIỚI

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Ma-kiệt-đà, trú ở thành Vương Xá.

Bấy giờ, đức Thế Tôn đến nhà thợ gốm và nói rằng:

– Này thợ gốm, Ta nay muốn tạm trú ở phòng làm đồ gốm một đêm, ông có thuận chăng?

Thợ gốm trả lời:

– Con chẳng trở ngại gì nhưng đã có một Tỳ-kheo trú trong đó trước rồi. Nếu vị ấy thuận thì xin tùy ý!

Lúc ấy, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi đã trú ở trong phòng làm đồ gốm ấy trước rồi. Bấy giờ, đức Thế Tôn ra khỏi nhà thợ gốm, đi vào phòng làm gốm và nói với Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi:

– Này Tỳ-kheo, Ta nay muốn tạm trú một đêm ở phòng làm gốm, thầy có thuận chăng?

Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi đáp:

– Thưa Hiền giả, tôi không trở ngại, vả lại ở phòng làm gốm này có chỗ ngồi bằng cỏ đã trải xong. Hiền giả muốn ở lại, xin tùy ý!

Bấy giờ, đức Thế Tôn từ phòng làm gốm đi ra ngoài, rửa chân rồi mới trở vào, lấy ni-sư-đàn trải lên chỗ ngồi bằng cỏ mà ngồi kiết-già, suốt đêm yên lặng, tĩnh tọa, định ý. Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi cũng suốt đêm yên lặng, tĩnh tọa, định ý. Bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Tỳ-kheo này an trú tịch tĩnh, kỳ lạ thay, hy hữu thay! Có lẽ nay Ta nên hỏi Tỳ-kheo này, thầy của ông ấy là ai, y cứ vào ai mà xuất gia học đạo, thọ pháp?” Nghĩ vậy, Thế Tôn liền hỏi:

– Này Tỳ-kheo, Tôn sư của thầy là ai, thầy y cứ vào ai mà xuất gia học đạo, thọ pháp?

Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi đáp:

– Thưa Hiền giả, có Sa-môn Cù-đàm, con dòng họ Thích, từ bỏ Thích tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng giác; vị ấy là thầy tôi. Tôi y cứ vào vị ấy mà xuất gia học đạo, thọ pháp.

Đức Thế Tôn lại hỏi:
– Này Tỳ-kheo, thầy có lần nào thấy vị ấy chưa?

Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi đáp:
– Chưa thấy!
Đức Thế Tôn hỏi:
– Nếu thấy vị ấy, thầy có nhận ra chăng?

– Không nhận ra. Nhưng thưa Hiền giả, tôi nghe Thế Tôn, Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; vị ấy là Thầy tôi. Tôi nương theo vị ấy mà xuất gia học đạo, thọ pháp.

Nghe như vậy, đức Thế Tôn lại nghĩ: “Người thiện nam này y cứ vào Ta mà xuất gia học đạo, thọ pháp, có lẽ nay Ta nên thuyết pháp cho người này.” Nghĩ thế, đức Thế Tôn nói với Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi:

– Này Tỳ-kheo, nay Ta sẽ thuyết pháp cho thầy, phần đầu thiện, phần giữa thiện và phần cuối cũng thiện, có nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; đó gọi là Phân biệt sáu giới. Thầy hãy lắng nghe, khéo suy tư và ghi nhớ.

Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi đáp: – Xin vâng!
Đức Phật bảo:

– Này Tỳ-kheo, con người có sáu giới tụ, có sáu xúc xứ, có mười tám ý hành, có bốn trụ xứ. Nếu ai an trú vào đó sẽ không nghe đến chuyện sầu não, sau khi không nghe chuyện sầu não thì ý không chán ghét, không ưu sầu, không lao nhọc, không sợ hãi. Như vậy, có sự khuyến giáo là đừng buông lung trí tuệ, hãy thủ hộ chân đế và trưởng dưỡng huệ thí. Này Tỳ-kheo, hãy học về tối thượng, hãy học về chí tịch, như vậy là phân biệt về sáu giới.

Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có sáu giới tụ là do nhân duyên gì mà nói như thế? Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới. Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có sáu giới tụ là do nhân đó mà nói.

Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có sáu xúc xứ là do nhân gì mà nói như thế? Tỳ-kheo, nhãn xúc thấy sắc, nhĩ xúc nghe tiếng, tỷ xúc ngửi mùi, thiệt xúc nếm vị, thân xúc cảm xúc, ý xúc biết pháp. Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có sáu xúc xứ là do nhân đó mà nói.

Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có mười tám ý hành là do nhân gì mà nói như thế? Tỳ-kheo, là mắt thấy sắc, quán sắc rồi an trú nơi hỷ, quán sắc rồi an trú nơi ưu, quán sắc rồi an trú nơi xả. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Ý nhận thức pháp, quán pháp rồi an trú nơi hỷ, quán pháp rồi an trú nơi ưu, quán pháp rồi an trú nơi xả. Này Tỳ-kheo, như vậy sáu hỷ quán, sáu ưu quán, sáu xả quán hợp lại là mười tám ý hành. Nói rằng con người có mười tám ý hành là do nhân đó mà nói.

Này Tỳ-kheo, nói rằng con người có bốn trụ xứ là do nhân duyên gì mà nói như thế? Là chân đế trụ xứ, tuệ trụ xứ, thí xả trụ xứ và tịch tĩnh trụ xứ. Này Tỳ- kheo, nói rằng con người có bốn trụ xứ là do nhân đó mà nói.

Này Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ? Tỳ-kheo nào phân biệt thân giới như thế này: “Nay thân này của ta có nội địa giới, được chấp thọ nơi hữu tình. Nội địa giới là thế nào? Là tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, xương, gân, thận, tim, gan, phổi, lá lách, ruột già, bao tử, phẩn. Tương tự như thế, trong thân này còn những thứ khác nữa, những gì được thâu nhiếp trong thân thuộc về chất cứng, tính cứng ở bên trong, được chấp thọ nơi hữu tình là nội địa giới.” Này Tỳ-kheo, dù là nội địa giới hay ngoại địa giới, đều gọi chung là địa giới. Tỳ-kheo đó dùng trí tuệ quán biết như thật rằng: “Những cái ấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của những cái ấy, những cái ấy cũng không phải là tự ngã của ta.” Tâm vị ấy không nhiễm trước địa giới ấy. Đó là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ.

Lại nữa, Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ là Tỳ-kheo nào phân biệt thân giới như thế này: “Nay thân này của ta có nội thủy giới, được chấp thọ nơi hữu tình. Nội thủy giới là gì? Là não mạc, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, mủ, máu, mỡ, tủy, nước giải, đờm, nước tiểu. Tương tự như thế, trong thân này còn nhiều thứ khác nữa, những gì được thâu nhiếp trong thân, thuộc về chất nước, tính nước nhuần thấm ở bên trong, được chấp thọ nơi hữu tình. Đó là nội thủy giới.” Này Tỳ-kheo, nội thủy giới hay ngoại thủy giới đều gọi chung là thủy giới. Tỳ- kheo ấy dùng trí tuệ quán biết như thật rằng: “Những cái ấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của những cái ấy, những cái ấy không phải là tự ngã của ta.” Tâm vị ấy không bị nhiễm trước thủy giới ấy. Đó là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ.

Lại nữa, Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ là Tỳ-kheo nào phân biệt thân giới như thế này: “Nay thân này của ta có nội hỏa giới, được chấp thọ nơi hữu tình. Nội hỏa giới là gì? Là cái làm cho thân phát nhiệt, thân nóng, thân phiền muộn, thân ấm lạnh, làm tiêu đồ ăn thức uống. Tương tự như thế, trong thân này còn những thứ khác nữa, những gì được thâu nhiếp trong thân, thuộc về lửa, tức lửa làm nóng ở bên trong, được chấp thọ nơi hữu tình. Đó là nội hỏa giới.” Này Tỳ-kheo, dù nội hỏa giới hay ngoại hỏa giới đều gọi chung là hỏa giới. Vị ấy dùng trí tuệ quán biết như thật rằng: “Những cái ấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của những cái ấy, những cái ấy không phải là tự ngã của ta.” Tâm Tỳ-kheo ấy không nhiễm trước hỏa giới ấy. Đó là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ.

Lại nữa, Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ là Tỳ-kheo nào phân biệt thân giới như thế này: “Nay thân này của ta có nội phong giới, được chấp thọ nơi hữu tình. Nội phong giới là thế nào? Là gió thổi lên, gió thổi xuống, gió ngang hông, gió co thắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió cử động tay chân, gió ở hơi thở ra, thở vào. Tương tự như thế, trong thân này còn các thứ khác nữa, những gì được thâu nhiếp trong thân, thuộc về gió, tánh gió, lưu động bên trong, được chấp thọ nơi hữu tình. Đó là nội phong giới.” Này Tỳ-kheo, dù ngoại phong giới hay nội phong giới đều gọi chung là phong giới. Tỳ-kheo ấy dùng trí tuệ quán biết như thật rằng: “Những cái ấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của những cái ấy, những cái ấy không phải là tự ngã của ta.” Tâm vị ấy không nhiễm trước phong giới ấy. Đó là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ.

Lại nữa, Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ là Tỳ-kheo nào phân biệt thân giới như thế này: “Nay thân này của ta có nội không giới, được chấp thọ nơi hữu tình. Nội không giới là gì? Là lỗ trống ở mắt, lỗ trống ở tai, lỗ trống ở mũi, lỗ trống ở miệng, cổ họng cử động, tức là để cho thức nhai và nuốt từ từ đi qua cổ họng, đi xuống rồi ra ngoài. Tương tự như thế, trong thân này có những thứ khác nữa, thuộc về hư không. Ở chỗ hư không ấy không bị da thịt xương gân lấp kín. Đó là nội không giới.” Này Tỳ-kheo, dù nội không giới hay ngoại không giới đều gọi chung là không giới. Tỳ-kheo dùng trí tuệ quán biết như thật rằng: “Những cái ấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của những cái ấy, những cái ấy không phải là tự ngã của ta.” Tâm vị ấy không nhiễm trước không giới ấy. Đó là Tỳ-kheo không buông lung trí tuệ.

Này Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo nào biết như thật về năm giới này, sau khi biết như thật, tâm không nhiễm trước chúng thì được giải thoát, chỉ còn có các thức mà thôi. Đó là những thức nào? Là lạc thức, khổ thức, hỷ thức, ưu thức và xả thức. Này Tỳ-kheo, nhân lạc xúc mà sanh lạc thọ, vị ấy cảm giác lạc thọ. Khi đã cảm giác lạc thọ, vị ấy biết mình cảm giác lạc thọ. Nếu Tỳ-kheo nào diệt lạc xúc, sau khi diệt lạc xúc này, nếu có lạc thọ do lạc xúc sanh, vị ấy cũng diệt, tĩnh chỉ và biết đã hoàn toàn nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, nhân khổ xúc sanh ra khổ thọ, vị ấy cảm giác khổ thọ. Sau khi đã cảm giác khổ thọ, vị ấy đã biết mình cảm giác khổ thọ. Nếu Tỳ-kheo nào diệt khổ xúc, sau khi diệt khổ xúc, nếu có khổ thọ do khổ xúc sanh, vị ấy cũng diệt, tĩnh chỉ và biết đã hoàn toàn nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, nhân hỷ xúc sanh ra hỷ thọ, vị ấy cảm giác hỷ thọ. Khi đã cảm giác hỷ thọ, vị ấy biết mình cảm giác hỷ thọ. Nếu Tỳ-kheo nào diệt hỷ xúc, sau khi diệt hỷ xúc này, nếu có hỷ thọ do hỷ xúc sanh, vị ấy cũng diệt, tĩnh chỉ và biết đã hoàn toàn nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, nhân ưu xúc sanh ra ưu thọ, vị ấy cảm giác ưu thọ. Khi đã cảm giác ưu thọ, vị ấy biết mình cảm giác ưu thọ. Nếu Tỳ-kheo nào diệt ưu xúc, sau khi diệt ưu xúc này, nếu có ưu thọ do ưu xúc sanh, vị ấy cũng diệt, tĩnh chỉ và biết đã hoàn toàn nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, nhân xả xúc sanh ra xả thọ, vị ấy cảm giác xả thọ. Khi đã cảm giác xả thọ, vị ấy biết mình cảm giác xả thọ. Nếu Tỳ-kheo nào diệt xả xúc ấy, khi diệt xả xúc rồi, nếu có từ xả xúc sanh xả thọ, vị ấy cũng diệt, tĩnh chỉ và biết đã hoàn toàn nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, nhân các xúc sanh ấy sanh ra các thọ ấy, khi đã diệt các xúc ấy thì các thọ ấy cũng diệt. Vị ấy biết rằng, thọ này từ xúc mà có, lấy xúc làm gốc, lấy xúc làm tập khởi, từ xúc sanh ra, lấy xúc làm đầu mối, y cứ nơi xúc mà hiện hành. Này Tỳ-kheo, cũng như mồi lửa, nhân cái dùi, sự nỗ lực của người và sức nóng mà lửa phát sanh. Này Tỳ-kheo, khi các dùi cây ấy tách rời nhau, nếu lửa từ đó phát sanh, sức nóng của lửa và sự chấp thọ của hữu tình, tất cả đều tắt biến, vắng bặt, im lìm và dùi cây nguội lạnh. Cũng vậy, này Tỳ-kheo, các xúc sanh ấy thế này hay thế kia sanh ra các thọ như thế này hay thế khác, diệt các xúc ấy thì các thọ ấy cũng diệt. Như vậy là đã biết thọ này từ xúc mà có, lấy xúc làm gốc, lấy xúc làm tập khởi, từ xúc sanh ra, lấy xúc làm đầu mối, y cứ nơi xúc mà hiện hành. Nếu Tỳ-kheo nào không nhiễm trước ba thọ này mà lại giải thoát thì Tỳ-kheo ấy chỉ còn có xả rất thanh tịnh. Này Tỳ-kheo, vị ấy nghĩ rằng: “Ta với xả thanh tịnh này nhập vào Vô lượng không xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó, trú vào đó, vững vàng vào đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó. Ta với xả thanh tịnh này nhập vào Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó, trú vào đó, vững vàng vào đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó.” Này Tỳ-kheo, cũng như thợ nấu vàng lành nghề dùng lửa đốt thỏi vàng, dát cho thật mỏng, rồi lại bỏ vào lò nung, đốt lửa đều đặn và đúng độ, luyện kỹ cho đến lúc tinh ròng, rất mềm mại và có ánh sáng. Này Tỳ-kheo, thứ vàng này là do thợ vàng đã đốt với lửa đều đặn và đúng độ, luyện kỹ thật tinh ròng, rất mềm mại và có ánh sáng. Như vậy rồi, thợ vàng ấy làm theo ý mình, như làm dây dính vào tơ lụa để trang sức áo mới, làm nhẫn tay, vòng tay xuyến, chuỗi, lưới tóc. Cũng vậy, Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo ấy nghĩ rằng: “Ta với xả thanh tịnh này nhập vào Vô lượng không xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó, trú vào đó, vững vàng nơi đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó. Ta với xả thanh tịnh này, nhập vào Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó, trú vào đó, vững vàng nơi đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó.” Tỳ-kheo ấy lại nghĩ: “Ta với xả thanh tịnh này nương vào Vô lượng không xứ, như vậy thuộc pháp hữu vi. Pháp hữu vi là vô thường; cái gì là vô thường, cái ấy là khổ. Nếu là khổ thì biết là khổ. Khi đã biết khổ thì xả, không du nhập Vô lượng không xứ nữa. Ta với xả thanh tịnh này nương vào Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, vẫn là thuộc pháp hữu vi. Nếu là pháp hữu vi thì vô thường; cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Nếu là khổ thì liền biết là khổ. Khi đã biết khổ thì xả, không du nhập Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ nữa.” Này Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo nào dùng tuệ quán bốn xứ này, biết như thật tâm không thành tựu, không du nhập thì bấy giờ xả ấy không còn là hữu vi nữa, vị ấy không suy tư gì đến hữu và vô nữa. Vị ấy cảm giác về thọ thân tối hậu thì biết cảm giác về thọ thân tối hậu, cảm giác về thọ sanh mạng tối hậu thì biết cảm giác về thọ sanh mạng tối hậu, và biết khi thân hoại mạng chung, sanh mạng chấm dứt, những gì được cảm thọ, tất cả đều tịch diệt, tịch tịnh, tĩnh chỉ và biết là sẽ rất nguội lạnh.

Này Tỳ-kheo, thí như đèn sáng là nhờ dầu và tim. Nếu không có ai đổ thêm dầu, nối thêm tim, như vậy thì dầu và tim có trước đã cháy hết mà những cái sau không được tiếp nối, sẽ không còn gì để chấp thọ nữa. Tỳ-kheo ấy cũng thế, cảm giác về chấp thọ thân tối hậu thì biết cảm giác về chấp thọ thân tối hậu, cảm giác về chấp thọ sanh mạng tối hậu thì biết cảm giác về chấp thọ sanh mạng tối hậu, và biết rằng, khi thân hoại mạng chung, sanh mạng chấm dứt thì tất cả những gì được cảm thọ thảy đều tịch diệt, tịch tịnh, tĩnh chỉ và biết là sẽ rất nguội lạnh. Này Tỳ-kheo, như thế, vị ấy được gọi là Tỳ-kheo chánh tuệ bậc nhất, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt tận, lậu tận. Tỳ-kheo ấy thành tựu như vậy là thành tựu chỗ chánh tuệ bậc nhất. Sự giải thoát này, vị ấy an trú vào chân đế, không bị dao động. Chân đế là pháp như thật, vọng ngôn là pháp hư vọng. Tỳ-kheo ấy thành tựu chân đế bậc nhất. Này Tỳ-kheo, với thí xả, nếu trước kia có oan gia cố cựu thì bấy giờ vị ấy phóng xả, lìa bỏ, giải thoát, dứt trừ. Này Tỳ- kheo, đó là Tỳ-kheo chánh huệ thí bậc nhất, xả ly tất cả mọi sự ở đời, hoàn toàn vô dục, tịch tịnh, tĩnh chỉ. Này Tỳ-kheo, thành tựu như thế là thành tựu chỗ huệ thí bậc nhất. Này Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nào tâm bị dục, nhuế và si làm cho ô uế, không được giải thoát; Tỳ-kheo ấy tận diệt tất cả dâm, nộ, si, vô dục, tịch tịnh, tĩnh chỉ, chứng đắc tịch tịnh bậc nhất. Này Tỳ-kheo, thành tựu như thế là thành tựu chỗ tịch tịnh bậc nhất.

Này Tỳ-kheo, ai nghĩ rằng “tôi là”, ấy là ngã mạn; “tôi sẽ có”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ chẳng phải có, chẳng phải không”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ có sắc”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ không có sắc”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ chẳng phải có sắc, chẳng phải không sắc”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ có tưởng”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ không có tưởng”, ấy cũng là ngã mạn; “tôi sẽ chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng”, ấy cũng là ngã mạn, là cống cao, là kiêu ngạo, là phóng dật. Này Tỳ-kheo, nếu không có những điều này: Ngã mạn, cống cao, kiêu ngạo, phóng dật thì ý tịch tịnh. Này Tỳ-kheo, nếu ý tịch tịnh thì không chán ghét, không ưu sầu, không lao nhọc, không sợ hãi. Vì sao? Vì Tỳ-kheo ấy đã thành tựu pháp nên không còn chán ghét, không chán ghét thì không ưu tư, không ưu tư thì không sầu não, không sầu não thì không lao nhọc, không lao nhọc thì không sợ hãi, nhân không sợ hãi thì sẽ đắc Niết- bàn, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn ly trần cấu, phát sanh pháp nhãn về các pháp. Bấy giờ, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi thấy pháp, đắc pháp, chứng pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn ai hơn,

không tùy thuộc ai nữa, không còn do dự, đã an trú vào quả chứng đắc. Đối với pháp của Thế Tôn, chứng đắc vô úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn, con ăn năn. Bạch Thiện Thệ, con ngay từ đầu như ngu như si, như khờ dại, như không hiểu biết, không nhận ra bậc Lương Điền, và không tự biết. Vì sao? Vì con đã gọi Như lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Giác là “Hiền giả.” Mong đức Thế Tôn cho con sám hối, sau khi sám hối, con sẽ không còn tái phạm nữa!

Đức Thế Tôn đáp:

– Này Tỳ-kheo, thầy quả thực ngu si, quả thực là khờ dại, không hiểu biết nên đã gọi Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác là “Hiền giả.” Này Tỳ-kheo, nếu thầy tự sám hối, đã thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa, như thế, này Tỳ-kheo, đối với Pháp, Luật của bậc Thánh, như vậy là tăng ích chớ không tổn hại, vì đã tự sám hối, đã tự thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.