Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

147. KINH VĂN ĐỨC
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn sau giữa trưa, thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong ngồi xuống một bên và bạch:

– Thưa Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho tôi mới dám trình bày!

Thế Tôn dạy:

– Này Phạm chí, muốn hỏi gì cứ hỏi!

Phạm chí Sanh Văn bèn hỏi:

– Đệ tử của Sa-môn Cù-đàm, hoặc có người tại gia hoặc có người xuất gia học đạo, nhưng vì mục đích gì mà bác văn tụng tập?

Thế Tôn đáp:

– Đệ tử của Ta, hoặc tại gia hay xuất gia học đạo mà bác văn tụng tập là muốn tự điều phục, muốn tự tịch tịnh, tự tìm cầu cứu cánh tịch diệt. Này Phạm chí, đệ tử của Ta, tại gia hay xuất gia học đạo vì mục đích này mà bác văn tụng tập.

Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:

– Thưa Cù-đàm, bác văn tụng tập có sự sai biệt chăng? Bác văn tụng tập có công đức chăng?

Thế Tôn dạy:

– Này Phạm chí, bác văn tụng tập có sự sai biệt, bác văn tụng tập cũng có công đức.

Phạm chí Sanh Văn hỏi:
– Thưa Cù-đàm, bác văn tụng tập có sự sai biệt gì? Có công đức gì? Thế Tôn dạy:

– Này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm các công nghiệp cốt để mưu cầu lợi ích, mà công nghiệp của họ thất bại, không thành. Dù những công nghiệp của họ đã thất bại, không thành, họ không ưu sầu, phiền muộn, khóc than, không vật mình ảo não, cũng không phát si, phát cuồng. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm các công nghiệp cốt để mưu cầu lợi ích, mà những công nghiệp ấy thất bại, không thành. Dù những công nghiệp ấy đã

thất bại, không thành, họ vẫn không ưu sầu, phiền muộn, khóc than, không vật mình ảo não, cũng không phát si, phát cuồng; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử có những điều ái niệm mà bị đổi thay, tán thất, không còn sum hội, cách biệt chia lìa, nhưng vẫn không ưu sầu, phiền muộn, khóc than, không vật mình ảo não, cũng không phát si, phát cuồng. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử có những điều ái niệm mà bị đổi thay, tán thất, không còn sum họp, cách biệt chia lìa, nhưng họ vẫn không ưu sầu, phiền muộn, khóc than, không vật mình ảo não, cũng không phát si, phát cuồng; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử biết rằng những tài vật sở hữu thảy đều vô thường nên suy niệm đến sự xuất gia học đạo. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử biết rằng những tài vật sở hữu thảy đều vô thường nên nghĩ đến sự xuất gia học đạo; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử sau khi biết rằng tài vật sở hữu thảy đều vô thường thì họ bèn cạo bỏ râu tóc, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử sau khi biết rằng những tài vật sở hữu thảy đều vô thường thì họ bèn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử có thể nhẫn nại đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức bách, tiếng dữ, gậy hèo cũng có thể nhẫn, thân thể gặp các thứ bệnh tật rất đau đớn đến gần như tuyệt mạng và những điều không vui, thảy đều có thể nhẫn nại. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử có thể nhẫn nại đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức bách, tiếng dữ, gậy hèo cũng có thể nhẫn, thân thể gặp các bệnh tật rất đau đớn đến gần như tuyệt mạng và những điều không vui, thảy đều có thể nhẫn nại; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại những điều không vui; khi những điều không vui đã sanh, trong lòng không hề bị vướng bận. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại những điều không vui; những điều không vui đã sanh, trong tâm không hề bị vướng bận; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại sự sợ hãi; khi sự sợ hãi phát sanh, trong tâm không hề bị vướng bận. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại sự sợ hãi; khi sự sợ hãi phát sanh, trong tâm không hề vướng bận; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử sanh khởi ba niệm ác, bất thiện là niệm dục, niệm nhuế và niệm hại; với ba niệm ác, bất thiện này, trong tâm không hề bị dính trước. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử sanh khởi ba niệm ác, bất thiện là niệm dục, niệm nhuế và niệm hại; với ba niệm ác, bất thiện này mà trong tâm không hề bị dính trước; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến chứng đắc tứ thiền, thành tựu an trú. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến chứng đắc tứ thiền, thành tựu an trú; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử ba kiết sử đã đoạn tận, chứng đắc Tu-đà-hoàn, không đọa pháp ác, quyết định đi đến chánh giác, tối đa bảy lần tái sanh; sau khi bảy lần qua lại nhân gian thiên thượng, đạt đến khổ biên. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử ba kiết sử đã đoạn tận, chứng đắc Tu-đà- hoàn, không đọa pháp ác, quyết định đi đến chánh giác, tối đa bảy lần tái sanh; sau khi bảy lần qua lại nhân gian thiên thượng, đạt đến khổ biên; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử ba kiết sử đã đoạn tận, dâm, nộ, si đã mỏng, chứng đắc Nhất lai, chỉ một lần qua lại nhân gian thiên thượng, sẽ đạt đến khổ biên. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử ba kiết sử đã đoạn tận, dâm, nộ, si đã mỏng, chứng đắc Nhất lai, chỉ một lần qua lại nhân gian thiên thượng, sẽ đạt đến khổ biên; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử năm hạ phần kiết sử đã đoạn tận, sanh vào nơi kia mà Bát-niết-bàn, chứng đắc bất thối, không trở lại thế gian này. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử năm hạ phần kiết sử đã đoạn tận, sanh vào nơi kia mà Bát-niết-bàn, chứng đắc bất thối, không trở lại thế gian này; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử có tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng vô sắc, như kỳ tượng định, thân tác chứng, thành tựu an trú, do tuệ quán mà vĩnh viễn đoạn trừ các lậu. Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử có tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng vô sắc, như kỳ tượng định, thân tác chứng, thành tựu an trú, do tuệ quán mà vĩnh viễn đoạn trừ các lậu; thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.

Lại nữa, này Phạm chí, đa văn Thánh đệ tử với các như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, các lậu đã đoạn tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Này Phạm chí, nếu đa văn Thánh đệ tử với các như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, các lậu đã đoạn tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt,
Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”; thì

này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.

Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:

– Bạch Thế Tôn, bác văn tụng tập này có sự sai biệt này, có công đức này; có sự sai biệt nào, có công đức nào tối thượng, tối diệu, tối thắng nữa chăng?

Thế Tôn dạy:

– Này Phạm chí, bác văn tụng tập này có sự sai biệt này, có công đức này; không còn có sự sai biệt nào, không còn có công đức nào tối thượng, tối diệu, tối thắng nữa.

Phạm chí Sanh Văn bạch:

– Bạch Thế Tôn, con đã hiểu! Bạch Thiện Thệ, con đã rõ! Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến khi mạng chung!

Đức Phật thuyết như vậy, Phạm chí Sanh Văn sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.