Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

146. KINH TƯỢNG TÍCH DỤ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, dị học Tỳ-lô vào lúc sáng sớm, ra khỏi thành Xá-vệ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ xong, đức Phật ngồi im lặng. Dị học Tỳ-lô sau khi được Phật thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ xong, rời chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi quanh ba vòng rồi lui về.

Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn ngồi trên cỗ xe trắng rất đẹp, cùng với năm trăm đệ tử, vào lúc sáng sớm, ra khỏi Xá-vệ, đi đến một khu rừng để dạy đệ tử tụng đọc kinh thơ. Phạm chí Sanh Văn từ xa trông thấy dị học Tỳ-lô đi đến, bèn hỏi:

– Này Bà-ta, mới sáng sớm đã từ đâu về vậy?

Dị học Tỳ-lô đáp:

– Này Phạm chí, tôi đi thăm đức Thế Tôn, lễ bái, hầu hạ, cúng dường rồi về đây.

Phạm chí Sanh Văn hỏi:
– Có biết Sa-môn Cù-đàm ở nơi yên tĩnh, vắng lặng học trí tuệ chăng? Dị học Tỳ-lô đáp:

– Phạm chí, tôi là hạng người nào mà có thể biết Thế Tôn ở nơi yên tĩnh, vắng lặng học trí tuệ? Này Phạm chí, nếu biết Thế Tôn ở nơi yên tĩnh, vắng lặng học trí tuệ thì cũng phải bằng Thế Tôn. Nhưng này Phạm chí, kinh thơ mà tôi đọc có bốn cú nghĩa, và do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin tưởng Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng. Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề đi rảo trong một khu rừng; ở giữa rừng cây, nhìn thấy dấu chân voi to lớn; thấy rồi thì nhất định tin tưởng con voi này phải là rất lớn mới có dấu chân như vậy. Này Phạm chí, tôi cũng vậy, trong kinh thơ mà tôi đọc có bốn cú nghĩa, do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.

Bốn cú nghĩa ấy là thế nào? Này Phạm chí, các luận sĩ Sát-lợi có trí tuệ, học rộng, quyết định, có thể khuất phục người đời, không thứ gì là không biết, rồi đem những điều được thấy mà tạo tác văn chương, lưu hành trong thế gian. Họ nghĩ như vầy: “Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự việc như vầy, như vầy. Nếu ông ấy trả lời được, ta lại hỏi nữa; nếu không trả lời được, ta khuất phục rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn đang trú tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn, họ còn không dám hỏi, há lại nói đến sự khuất phục? Này Phạm chí, trong kinh sách được đọc, tôi tìm thấy cú nghĩa thứ nhất này. Tôi do ý nghĩa này mà nhất định tin tưởng rằng Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.

Cũng vậy, những Phạm chí có trí tuệ, những cư sĩ có trí tuệ, những luận sĩ Sa-môn có trí tuệ, đa văn, quyết định, có khả năng khuất phục người đời, không điều gì là không biết, rồi đem những điều được thấy tạo tác văn chương, lưu hành thế gian. Họ nghĩ như vầy: “Ta đi đến Sa-môn Cù-đàm, hỏi sự việc như vầy, như vầy. Nếu ông ấy trả lời được, ta lại hỏi nữa; nếu không trả lời được, ta sẽ khuất phục rồi bỏ đi.” Họ nghe Thế Tôn trú tại thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn rồi, họ còn không dám hỏi, há lại nói đến sự khuất phục? Này Phạm chí, trong kinh thơ được đọc, tôi tìm thấy cú nghĩa thứ tư này. Tôi do ý nghĩa này mà nhất định tin tưởng rằng Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.

– Này Phạm chí, kinh thơ mà tôi được đọc có bốn cú nghĩa này. Tôi do bốn cú nghĩa này mà nhất định tin tưởng rằng Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.

Phạm chí Sanh Văn nói:

– Này Bà-ta, ông thật hết sức cúng dường Sa-môn Cù-đàm, do sở nhân, sở duyên này mà hoan hỷ phụng hành.

Dị học Tỳ-lô đáp:

– Này Phạm chí, thật vậy, thật vậy. Tôi hết sức cúng dường đức Thế Tôn ấy và cũng hết sức tán thán. Tất cả thế gian cũng phải cúng dường.

Lúc bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn nghe ý nghĩa đó rồi, liền từ trên xe bước xuống, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc, ba lần làm lễ: “Nam-mô Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.” Ba lần như vậy xong, Phạm chí lên cỗ xe trắng rất đẹp, đi đến rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Đến chỗ xe hết có thể đi được, Phạm chí xuống xe, đi bộ tiến về chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Phạm chí đem câu chuyện mà Phạm chí vừa thảo luận với dị học Tỳ-lô kể lại hết cho Phật nghe. Thế Tôn nghe xong, liền dạy:

– Này Phạm chí, dị học Tỳ-lô nói thí dụ về dấu chân voi chưa được hoàn hảo, chưa được trọn vẹn. Thí dụ về dấu chân voi mà được nói một cách hoàn hảo, trọn vẹn thì để Ta nói cho ông nghe. Hãy khéo nghe kỹ.

– Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề đi rảo trong một khu rừng; ở giữa đám cây rừng, nhìn thấy dấu chân voi to lớn; thấy rồi, người ấy có thể tin rằng con voi kia phải hết sức lớn mới có dấu chân như vậy.

– Này Phạm chí, thợ săn voi rành nghề ấy hoặc giả không tin, vì rằng trong khu rừng ấy có một loại voi cái được gọi là Gia-lê-nậu, thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo dấu chân, lại thấy dấu chân voi rất lớn; thấy rồi, người ấy có thể tin rằng con voi này hết sức lớn mới có dấu chân như vậy.

Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy hoặc giả vẫn không tin, vì rằng trong rừng ấy lại còn có loại voi cái được gọi là Gia-la-lê, thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo dấu chân này, lại thấy dấu chân voi to lớn; thấy rồi, người ấy có thể tin rằng con voi này phải hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.

– Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy hoặc giả vẫn không tin, vì rằng trong rừng này còn có loại voi cái được gọi là Bà-hòa-nậu, thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo dấu chân này, lại thấy dấu chân voi to lớn; thấy rồi, người ấy có thể tin rằng con voi này phải hết sức lớn mới có dấu chân này. Thợ săn tìm theo dấu chân, rồi thấy dấu chân voi rất lớn. Dấu chân voi rất lớn, vuông vức, rất dài, rất rộng, toàn thể chu vi bàn chân lún sâu xuống đất; và thấy con voi ấy hoặc đi lui, hoặc đi tới, hoặc dừng lại, hoặc chạy, hoặc đứng, hoặc nằm. Thấy con voi ấy rồi, người ấy bèn nghĩ: “Có được dấu chân kia, tất phải là voi lớn này.”

– Này Phạm chí, cũng vậy, nếu trong đời xuất hiện Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; vị ấy ở trong thế gian này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn, có nghĩa, trọn đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh.

Pháp được vị ấy thuyết giảng, hoặc cư sĩ, hoặc con nhà cư sĩ, nghe xong được tín tâm; sau khi ở trong Chánh pháp, Luật của Như Lai mà được tín tâm rồi, bèn nghĩ rằng: “Tại gia chật hẹp, đầy những nhọc nhằn bụi bặm; đời xuất gia học đạo rộng rãi bao la. Ta nay sống tại gia bị những phiền tỏa khóa chặt, không được trọn đời tịnh tu Phạm hạnh. Vậy ta hãy từ bỏ những tài vật ít hay tài vật nhiều, từ giã thân thuộc ít hay thân thuộc nhiều, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo.” Người ấy sau khi xuất gia, từ giã thân thuộc, thọ yếu pháp Tỳ-kheo, tu tập cấm giới, thủ hộ biệt giải thoát luật nghi, lại khéo thu nhiếp các oai nghi lễ tiết, thấy những lỗi nhỏ nhặt thường đem lòng lo sợ, thọ trì học giới.

Người ấy lìa bỏ sát sanh, đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ đao gậy, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự lấy của không cho, đoạn trừ sự lấy của không cho, chỉ lấy của được cho, vui trong sự lấy của được cho, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không trông chờ báo đáp. Người ấy đối với sự lấy của không cho, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa phi Phạm hạnh, đoạn trừ phi Phạm hạnh, siêng tu Phạm hạnh, tinh cần diệu hạnh, thanh tịnh vô uế, ly dục, đoạn dâm. Người ấy đối với sự phi Phạm hạnh, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa nói láo, đoạn trừ nói láo, nói lời chắc thật, thích sự thật, an trú trên sự thật, không di động, tất cả những lời đáng tin, không lừa gạt thế gian. Người ấy đối với sự nói láo, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai lưỡi, sống không hai lưỡi, không phá hoại người khác, không nghe người này nói lại người kia để phá hoại người này, không nghe từ người kia nói lại người này để phá hoại người kia, chia rẽ thì làm cho hòa hợp, đã hòa hợp thì làm cho hoan hỷ, không kết bè đảng, không vui theo bè đảng, không ca ngợi việc kết bè đảng. Người ấy đối với hai lưỡi, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa lời nói cộc cằn, đoạn trừ nói cộc cằn; nếu có lời nói nào mà lời lẽ thô lỗ, tiếng dữ, chói tai, mọi người không vui, mọi người không thích, khiến người khác khổ não, khiến không được định thì đoạn trừ những lời như vậy; nếu có những lời nào mà ôn hòa, mềm mỏng, nghe lọt tai, thấm vào lòng, đáng ưa, đáng thích, khiến người khác an ổn, lời tiếng rõ ràng đầy đủ, không khiến người sợ, khiến người được định thì nói những lời như vậy. Người ấy đối với sự nói cộc cằn, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa nói thêu dệt, đoạn trừ nói thêu dệt, nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói tịch tịnh, nói sự ưa thích tịch tịnh, hợp sự việc, hợp thời cơ, khéo khuyến giáo, khéo khiển trách. Người ấy đối với sự nói thêu dệt, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa việc buôn bán, đoạn trừ việc buôn bán, dẹp bỏ cân đong và đấu hộc, cũng không nhận hàng hóa, không buộc trói người, không mong đong lừa, cân thiếu, không vì lợi nhỏ mà xâm hại, gạt gẫm người. Người ấy đối với sự buôn bán, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận đàn bà con gái, đoạn trừ sự thâu nhận đàn bà con gái. Người ấy đối với sự thâu nhận đàn bà con gái, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận nô tỳ, đoạn trừ sự thâu nhận nô tỳ. Người ấy đối với sự thâu nhận nô tỳ, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê; đoạn trừ sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê. Người ấy đối với sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận gà, heo; đoạn trừ sự thâu gà, heo. Người ấy đối với sự thâu nhận gà, heo, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá; đoạn trừ sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá. Người ấy đối với sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống; đoạn trừ sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống. Người ấy đối với sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa rượu, đoạn trừ rượu. Người ấy đối với sự uống rượu, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa giường cao rộng lớn, đoạn trừ giường cao rộng lớn. Người ấy đối với giường cao rộng lớn, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp; đoạn trừ tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp. Người ấy đối với tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa ca, múa, xướng, hát và đến xem nghe; đoạn trừ ca, múa, xướng, hát và đến xem nghe. Người ấy đối với ca, múa, xướng, hát và đến xem nghe, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự thâu nhận vàng bạc, đoạn trừ sự thâu nhận vàng bạc. Người ấy đối với sự thâu nhận vàng bạc, tâm đã tịnh trừ. Người ấy xa lìa sự ăn quá ngọ, đoạn trừ sự ăn quá ngọ. Người ấy đối với sự ăn quá ngọ, tâm đã tịnh trừ.

Người ấy sau khi thành tựu các Thánh giới này rồi thì sống hết sức tri túc, áo chỉ cốt để che thân, ăn chỉ cốt để nuôi thân, du hành đến đâu đều mang theo y bát, đi không luyến tiếc, cũng như con nhạn mang theo đôi cánh bay liệng trong không.

Người ấy sau khi thành tựu các Thánh giới này và hết sức tri túc rồi, lại thủ hộ các căn, thường niệm sự khép kín, niệm tưởng muốn minh đạt, thủ hộ niệm tâm mà được thành tựu, hằng khởi chánh tri. Khi mắt thấy sắc thì không chấp thủ sắc tướng, không đắm sắc vị, vì phẫn tránh mà thủ hộ nhãn căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì để thú hướng đến kia nên thủ hộ nhãn căn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân; khi ý biết pháp thì không chấp thủ các pháp tướng, không đắm pháp vị, vì phẫn tránh mà thủ hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì để thú hướng đến nơi kia nên thủ hộ ý căn.

Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới này thì hết sức tri túc, thủ hộ các căn, rồi lại biết rõ chân chánh sự ra vào, khéo quán sát phân biệt sự co duỗi, cúi ngước, nghi dung chững chạc, khéo đắp Tăng-già-lê và các y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ nghỉ, nói năng, thảy đều biết rõ chân chánh.

Người ấy sau khi thành tựu các Thánh giới này thì hết sức tri túc, thủ hộ các căn, biết rõ chân chánh sự ra vào, rồi lại sống cô độc tại nơi xa vắng, ở trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, những nơi thanh nhàn yên tĩnh, sườn non, động đá, đất trống, lùm cây, hoặc đến trong rừng, hoặc giữa bãi tha ma. Người ấy sau khi ở trong rừng vắng, hoặc đến gốc cây, những chỗ thanh nhàn yên tĩnh, trải ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết-già, chánh thân, chánh nguyện, hướng niệm nội tâm, đoạn trừ tâm tham lam, không có não hại, thấy tài vật và các nhu dụng sinh sống của người khác mà không khởi tâm tham lam muốn khiến về mình; người ấy đối với tham lam, tâm được tịnh trừ. Cũng vậy, đối với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, đoạn trừ nghi hoặc, đối với các thiện pháp không còn do dự; vị ấy đối với sự nghi hoặc, tâm đã tịnh trừ.

Người ấy đoạn trừ năm triền cái này, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém; ly dục, ly ác, bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, thành tựu an trú. Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục. Nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói rằng: “Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”

Rồi người ấy giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, thành tựu an trú. Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục. Nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói rằng: “Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”

Rồi người ấy ly hỷ, dục, xả, vô cầu, an trú nơi chánh niệm, chánh trí, thân cảm lạc thọ, điều mà bậc Thánh gọi là “Thánh sở xả”, niệm lạc trụ thất, đạt đến Thiền thứ ba, thành tựu an trú. Này Phạm chí, đó gọi là điều đã được Như Lai khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục. Nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói rằng: “Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”

Rồi người ấy lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ vốn có cũng đã diệt, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh, đạt đến Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục. Nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói rằng: “Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”

Người ấy sau khi đạt đến tịnh tâm như vậy, thanh tịnh, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trú vững vàng, đạt được bất động tâm, thú hướng đến sự tác chứng Lậu tận trí thông. Người ấy biết như thật đây là khổ, biết như thật đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo; biết như thật đây là lậu, biết như thật đây là lậu tập, đây là lậu diệt, đây là lậu diệt đạo. Người ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu; giải thoát rồi thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục. Người ấy lấy đây làm cứu cánh để nói rằng: “Thế Tôn là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”

– Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao? Thí dụ về dấu chân voi như vậy là khéo trình bày, được trọn vẹn chăng?

Phạm chí Sanh Văn đáp:

– Ví dụ dấu chân voi như vậy là khéo trình bày, được trọn vẹn đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con đã hiểu! Bạch Thiện Thệ, con đã rõ! Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong Thế Tôn nhận con làm ưu-bà- tắc, kể từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến khi mạng chung!

Đức Phật thuyết như vậy, Phạm chí Sanh Văn và dị học Tỳ-lô sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.