Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, sau khi đức Phật nhập Bát-niết-bàn chưa bao lâu, Tôn giả A-nan du hóa tại thành Vương Xá.
Lúc bấy giờ, Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà đang chỉnh trị thành Vương Xá để phòng ngừa dân Bạt-kỳ. Rồi Đại thần Vũ-thế sai Cù-mặc Mục-kiền-liên, một người làm ruộng, đi đến Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan vào lúc sáng sớm, khoác y, ôm bát vào thành Vương Xá để khất thực. Rồi Tôn giả A-nan nghĩ rằng: “Hãy gác việc khất thực trong thành Vương Xá lại đã. Ta hãy đến chỗ Cù-mặc Mục-kiền-liên, người làm ruộng.” Tôn giả A-nan bèn đi đến chỗ Cù-mặc Mục-kiền-liên, người làm ruộng. Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên từ xa trông thấy Tôn giả A-nan đi đến, bèn rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Tôn giả A-nan và bạch:
– Kính chào A-nan, lâu nay không thấy đến. Xin mời ngài ngồi trên chỗ này!
Tôn giả A-nan liền ngồi trên chỗ ngồi đó. Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi chào hỏi Tôn giả A-nan rồi ngồi xuống một bên mà bạch:
– Bạch A-nan, tôi có điều muốn hỏi, mong nghe cho chăng? Tôn giả A-nan trả lời:
– Mục-kiền-liên, ông cứ hỏi đi, tôi nghe xong sẽ suy nghĩ! Bèn hỏi rằng:
– Bạch A-nan, có Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm chăng?
Trong khi Tôn giả A-nan và Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên đang thảo luận vấn đề này thì Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà đang đi ủy lạo những người làm ruộng, đến chỗ của Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên, người làm ruộng. Đại thần Vũ-thế từ xa trông thấy Tôn giả A-nan ở trong chỗ Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên, người làm ruộng, bèn đi đến chỗ Tôn giả A-nan; sau khi chào hỏi xong, ngồi xuống một bên và hỏi rằng:
– Bạch A-nan, vừa rồi cùng với Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên thảo luận vấn đề gì? Vì vấn đề gì mà cùng hội họp ở đây?
Tôn giả A-nan đáp:
– Vũ-thế, Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên hỏi tôi rằng: “A-nan, có Tỳ- kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm chăng?”
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– A-nan, ngài trả lời ông ấy như thế nào?
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được. Nhưng có Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên và nói rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa của các Tỳ-kheo”, và vị ấy nay là nơi nương tựa của các ngài?
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn nhìn nhận, được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, trong lúc tại thế lập lên và nói rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ- kheo”, và ngày nay đang là chỗ nương tựa cho chúng tôi.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm, cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên và nói rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo”, và vị ấy nay là nơi nương tựa cho các ngài. Nhưng có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp và bái lập lên rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo”, và nay đang là nơi nương tựa của các ngài?
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, cũng không có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo”, và nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm; cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ- kheo”, và nay đang là nơi nương tựa cho các ngài; cũng không Tỳ-kheo nào được Tăng chúng hòa hiệp bái lập lên rằng: “Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo”, và nay đang là nơi nương tựa cho các ngài. Bạch A-nan, nếu vậy, các ngài hiện tại không có ai để nương tựa, nhưng cùng sống hòa hiệp, không tranh chấp, an ổn, đồng trong một giáo pháp, cùng hiệp nhất như nước với sữa, an lạc du hành như trong lúc Sa-môn Cù-đàm tại thế chăng?
Tôn giả A-nan đáp :
– Này Vũ-thế, ông đừng nói rằng chúng tôi không có ai để nương tựa. Vì
sao vậy? Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà bạch:
– Bạch A-nan, những điều được nói trước và sau sao lại không phù hợp nhau? Ngài vừa nói như vầy: “Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế Tôn; cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn nhìn nhận, được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác trong lúc tại thế lập lên và nói rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi; cũng không có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi.” Nhưng bạch A-nan, do nhân gì, duyên gì, nay ngài lại nói rằng: “Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa?”
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, chúng tôi không nương tựa nơi người nhưng nương tựa nơi pháp. Này Vũ-thế, nếu chúng tôi nương tựa nơi thôn ấp mà sống, vào ngày mười lăm là ngày thuyết biệt giải thoát giới, cùng tập hội ngồi tại một chỗ. Nếu có Tỳ-kheo nào hiểu biết pháp, chúng tôi thỉnh vị ấy thuyết pháp cho chúng tôi. Nếu chúng Tăng ấy thanh tịnh, chúng tôi hoan hỷ phụng hành theo lời dạy của vị ấy. Nếu chúng Tăng ấy không thanh tịnh thì tùy theo pháp được nói, chúng tôi khuyên dạy nên làm điều này.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà bạch:
– Bạch A-nan, không phải các ngài khuyên dạy nên làm điều này, nhưng chính là pháp khuyên dạy nên làm điều này. Như vậy, A-nan, một ít pháp hay có nhiều pháp thảy đều có thể được tồn tại lâu dài; và như vậy, A-nan, các ngài sống hòa hiệp, không tranh chấp, an ổn, đồng trong một giáo pháp, cùng hiệp nhất như nước với sữa, an lạc du hành như lúc Sa-môn Cù-đàm tại thế.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– Bạch A-nan, có vị nào đáng kính trọng chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, có vị xứng đáng được kính trọng.
Vũ-thế bạch:
– Bạch A-nan, những điều được nói sao lại trước sau không phù hợp nhau? Ngài vừa nói như vầy: “Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế Tôn; cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn trong lúc tại thế lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi; cũng không có một Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi.” Nhưng bạch A-nan, do nhân gì, duyên gì, nay ngài lại nói rằng: “Có vị xứng đáng được tôn kính?”
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Vũ-thế, Thế Tôn, bậc Tri kiến, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, đã có dạy về mười pháp đáng tôn kính; nếu chúng tôi thấy Tỳ- kheo nào có mười pháp này, chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Những gì là mười? Này Vũ-thế, Tỳ-kheo tu tập cấm giới, thủ hộ biệt giải thoát, lại khéo thu nhiếp oai nghi lễ tiết, biết tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường sanh lòng lo sợ, thọ trì học giới. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực hành trì tăng thượng giới thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo học rộng, nghe nhiều, ghi nhớ không quên, tích lũy sự bác văn; đối với những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, cụ túc thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; đối với các pháp như vậy, học rộng, nghe nhiều, tụng thuộc cho đến hàng ngàn, chuyên ý tư duy quán sát, thấy rõ, hiểu sâu. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực đa văn thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo ấy xứng đáng là thiện tri thức, xứng đáng là thiện bằng hữu, xứng đáng là người bạn đồng hành tốt. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào thật sự xứng đáng là thiện tri thức thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo vui thích đời sống viễn ly, thành tựu cả hai sự viễn ly là thân và tâm. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào thật sự rất ưa thích đời sống viễn ly thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo vui thích với sự tĩnh tọa, nội hằng chánh chỉ, không rời tư sát, thành tựu quán hạnh, tăng trưởng không hành. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất vui thích với sự tĩnh tọa thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo tri túc, áo cốt che thân, ăn chỉ để sống, đi đâu đều mang theo y bát, đi không luyến tiếc, như con nhạn mang theo đôi cánh bay liệng trong hư không. Như vậy, Tỳ-kheo tri túc, áo cốt che thân, ăn chỉ để sống, đi đâu mang theo y bát, đi không luyến tiếc. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất tri túc thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo thường hành chuyên niệm, thành tựu chánh niệm; những gì đã tập hành từ lâu, những gì đã từng nghe từ lâu, hằng ghi nhớ không quên. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất chánh niệm thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ- kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo thường hành tinh tấn, đoạn trừ ác, bất thiện, tu tập các thiện pháp, hằng tự khởi ý, chuyên nhất kiên cố; đối với các gốc rễ thiện pháp, không từ lao nhọc. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất tinh cần thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo tu hành trí tuệ, quán pháp hưng suy, được như thật trí, Thánh tuệ minh đạt, phân biệt thông suốt để chân chánh diệt tận sự khổ. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực tu hành trí tuệ thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lại nữa, này Vũ-thế, Tỳ-kheo đã diệt tận các lậu, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào đã diệt tận các lậu thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Này Vũ-thế, Thế Tôn, bậc Tri Kiến, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, giảng thuyết mười pháp đáng được tôn kính này. Này Vũ-thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào hành mười pháp này thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ bái, hầu hạ Tỳ-kheo ấy.
Lúc bấy giờ, đám đông ở đây cất cao tiếng lớn nói rằng:
– Có thể tu tập con đường chánh trực chứ không phải không thể tu. Nếu ai tu tập con đường chánh trực, chứ không phải không thể tu thì vị ấy là A-la-hán ở trong đời, xứng đáng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái, hầu hạ. Nếu các ngài đối với con đường chánh trực nên tu tập mà có thể tu tập, cho nên trong đời là A-la-hán, xứng đáng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái, hầu hạ.
Rồi Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà cùng với đám tùy tùng hỏi rằng:
– A-nan, nay ngài du hành tại đâu?
Tôn giả A-nan đáp:
– Tôi đang du hành tại Vương Xá này, ở trong Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa.
– Bạch A-nan, vườn Trúc Lâm, Ca-lan-đa thật là khả ái, đáng ưa, rất chỉnh đốn, dễ thích; ban ngày không ồn ào, ban đêm vắng lặng, không có muỗi mòng, ruồi nhặng, không lạnh, không nóng. A-nan, ngài thích sống tại Trúc Lâm, Ca- lan-đa chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
– Thật vậy, Vũ-thế, vườn Trúc Lâm, Ca-lan-đa rất khả ái, dễ ưa, rất chỉnh đốn, dễ thích; ban ngày không ồn ào, ban đêm thì vắng lặng, không có muỗi mòng, ruồi nhặng, không lạnh, không nóng. Này Vũ-thế, tôi thích trú trong vườn Trúc Lâm, Ca-lan-đa ấy. Vì sao? Vì Thế Tôn cũng tán thành.
Lúc ấy, Đại tướng Bà-nan cũng ở giữa đám đông ấy. Đại tướng Bà-nan thưa:
– Thật vậy, Vũ-thế, vườn Trúc Lâm, Ca-lan-đa rất khả ái, dễ ưa, rất chỉnh đốn, dễ thích; ban ngày không ồn ào, ban đêm thì vắng lặng, không có muỗi mòng, ruồi nhặng, không lạnh, không nóng. Tôn giả ấy thích trú tại Trúc Lâm, Ca-lan-đa. Vì sao vậy? Vì Tôn giả này hành tư sát, ưa thích tư sát.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà nghe xong bèn nói:
– Này Đại tướng Bà-nan, trước đây, khi Sa-môn Cù-đàm du hành tại Kim- tỳ-la, ở trong Lạc viên này, thì này Đại tướng Bà-nan, lúc bấy giờ, tôi nhiều lần đến thăm Sa-môn Cù-đàm. Vì sao vậy? Sa-môn Cù-đàm thực hành tư sát, ưa thích tư sát, tán thành tất cả mọi tư sát.
Tôn giả A-nan nghe xong, nói rằng:
– Vũ-thế, đừng nói rằng Sa-môn Cù-đàm tán thán tất cả mọi tư sát. Vì sao vậy? Thế Tôn có khi tán thán tư sát, nhưng có khi không tán thán.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
– A-nan, Sa-môn Cù-đàm không tán thán tư sát, nhưng không tán thán loại tư sát nào?
Tôn giả A-nan đáp:
– Vũ-thế, hoặc có người bị triền phược bởi tham dục mà móng khởi tham dục, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại bởi tham dục cho nên tư sát, chuyên tư sát, trọng tư sát. Đó là loại tư sát thứ nhất Thế Tôn không tán thán.
Lại nữa, Vũ-thế, hoặc có người bị triền phược bởi sân nhuế mà móng khởi sân nhuế, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại bởi sân nhuế cho nên tư sát, chuyên tư sát, trọng tư sát. Vũ-thế, đó là loại tư sát thứ hai mà Thế Tôn không tán thán.
Lại nữa, này Vũ-thế, bị triền phược bởi thụy miên mà móng khởi thụy miên, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại bởi thụy miên cho nên tư sát, chuyên tư sát, trọng tư sát. Vũ-thế, đó là loại tư sát thứ ba mà Thế Tôn không tán thán.
Lại nữa, này Vũ-thế, bị triền phược bởi nghi hoặc mà móng khởi nghi hoặc, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại bởi nghi hoặc cho nên tư sát, chuyên tư sát, trọng tư sát. Vũ-thế, đó là loại tư sát thứ tư mà Thế Tôn không tán thán. Này Vũ-thế, Thế Tôn không tán thán bốn loại tư sát này.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà bạch:
– Bạch A-nan, bốn loại tư sát này thật đáng khinh miệt, là những trường hợp đáng khinh miệt, Sa-môn Cù-đàm không tán thán. Vì sao vậy? Vì Ngài là bậc Chánh Đẳng Giác vậy.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà lại bạch:
– Bạch A-nan, những loại tư sát nào được Sa-môn Cù-đàm tán thán?
Tôn giả A-nan đáp:
– Vũ-thế, Tỳ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến chứng đắc tứ thiền, thành tựu an trú. Này Vũ-thế, Thế Tôn tán thán bốn loại tư sát này.
Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà bạch:
– Bạch A-nan, bốn loại tư sát này thật đáng tán thán, là những trường hợp đáng tán thán, được Sa-môn Cù-đàm tán thán. Vì sao vậy? Vì Ngài là bậc Chánh Đẳng Giác vậy. A-nan, tôi bận nhiều việc, xin phép cáo từ!
Tôn giả A-nan nói:
– Xin cứ tùy ý !
Rồi Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà sau khi nghe Tôn giả A-nan nói, cẩn thận ghi nhớ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh Tôn giả ba vòng rồi trở lui.
Lúc bấy giờ, Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà đi không lâu, bạch rằng:
– Bạch A-nan, phải chăng những điều tôi hỏi đã không được trả lời? Tôn giả A-nan đáp:
– Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên, quả thật tôi đã không trả lời. Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bạch:
– A-nan, tôi lại có điều muốn hỏi nữa, mong nghe cho chăng? Tôn giả A-nan đáp:
– Mục-kiền-liên, ông cứ hỏi, tôi nghe xong sẽ suy nghĩ! Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bèn hỏi:
– Bạch A-nan, giải thoát và tuệ giải thoát của Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác và giải thoát của A-la-hán, hai giải thoát này có sự sai biệt nào và có sự thắng liệt nào chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
– Này Mục-kiền-liên, giải thoát và tuệ giải thoát của Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác và giải thoát của A-la-hán, hai giải thoát này không có sai biệt, cũng không có sự thắng liệt.
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bạch:
– Bạch A-nan, mong ngài ở lại đây dùng cơm!
Tôn giả A-nan im lặng nhận lời. Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên biết Tôn giả A-nan im lặng nhận lời, bèn rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, tự tay lấy nước rửa, dọn các thức ăn rất tịnh diệu với đủ các loại cứng và loại mềm, tự tay châm nước cho đến đầy đủ; ăn xong, dọn dẹp chén bát, dùng nước rửa xong, lấy một cái giường nhỏ ngồi riêng một bên và nghe pháp. Tôn giả A-nan thuyết pháp cho ông nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ; bằng vô lượng phương tiện để thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.
Tôn giả A-nan thuyết như vậy, Đại thần Vũ-thế nước Ma-kiệt-đà và quyến thuộc cùng Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi nghe Tôn giả A-nan dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.