Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Ma-nạp Thương-ca-la sau giữa trưa, thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên và bạch:
- Bạch Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho mới dám trình bày!
Thế Tôn nói:
- Ma-nạp, nếu có điều gì nghi ngờ, ông cứ tự ý hỏi!
Ma-nạp Thương-ca-la liền hỏi:
- Bạch Cù-đàm, Phạm chí đúng như pháp mà hành khất tài vật, tự mình trai tự, hoặc dạy người khác trai tự. Bạch Cù-đàm, nếu tự mình trai tự hay dạy người khác trai tự, những người ấy đều hành trên vô lượng phước tích, vì do nơi trai tự vậy. Đệ tử của Sa-môn Cù-đàm trong một chủng tộc nào đó, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, tự mình điều ngự, tự mình tịch tịnh, tự mình cứu cánh tịch diệt. Như vậy, đệ tử của Sa-môn Cù-đàm trong một chủng tộc nào đó, chỉ hành trên một phước tích chứ không hành trên vô lượng phước tích, do bởi sự học đạo vậy.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu Phật. Rồi Tôn giả A-nan hỏi:
- Này Ma-nạp, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?
Ma-nạp Thương-ca-la nói:
- A-nan, đối với Sa-môn Cù-đàm và A-nan, tôi đều cung kính, tôn trọng, phụng thờ.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
- Này Ma-nạp, tôi không hỏi ông cung kính, tôn trọng, phụng thờ ai mà tôi chỉ hỏi ông rằng trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?
Tôn giả A-nan đến ba lần hỏi Ma-nạp Thương-ca-la:
- Này Ma-nạp, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?
Ma-nạp Thương-ca-la cũng đến ba lần nói:
- A-nan, đối với Sa-môn Cù-đàm và A-nan, tôi đều cung kính, tôn trọng, phụng thờ.
Tôn giả A-nan lại nói:
- Này Ma-nạp, tôi không hỏi ông cung kính, tôn trọng, phụng thờ ai mà tôi chỉ hỏi ông trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ: “Ma-nạp Thương-ca-la đã bị A-nan khuất phục. Ta hãy cứu người này.”
Thế Tôn biết rồi, liền nói:
- Này Ma-nạp, hôm trước, vua và các quần thần triệu tập đại hội, thảo luận những gì? Vì những duyên cớ nào mà cùng tập hội?
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
- Ngày hôm trước, vua và quần thần triệu tập đại hội để thảo luận vấn đề này: “Do nhân gì, duyên gì mà trước kia Sa-môn Cù-đàm ít thiết lập học giới, nhưng các Tỳ-kheo phần nhiều đắc đạo; và do nhân gì, duyên gì mà ngày nay Sa-môn Cù-đàm thiết lập nhiều học giới thì các Tỳ-kheo lại ít đắc đạo?” Bạch Cù-đàm, ngày hôm trước, vua và quần thần triệu tập đại hội để thảo luận vấn đề này. Do sự kiện này mà triệu tập đại hội.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy:
- Ma-nạp, bây giờ Ta hỏi ông, hãy tùy theo sự hiểu mà trả lời. Ý ông nghĩ sao? Giả sử có một Sa-môn, Phạm chí tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Vị ấy sau đó thuyết giảng cho người khác rằng: “Ta tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Các ông hãy đến đây, và hãy tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’” Rồi người này cũng tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Rồi người này lại thuyết giảng cho người khác nữa. Cứ như vậy, lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng. Này Ma-nạp, ý ông nghĩ sao? Đệ tử của Ta trong một chủng tộc nào đó, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, chỉ hành trên một phước tích, không hành trên vô lượng phước tích, có phải là do bởi sự học đạo chăng?
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
- Bạch Cù-đàm, theo sự hiểu biết của tôi đối với điều mà Sa-môn Cù-đàm nói thì đệ tử của Sa-môn Cù-đàm ấy trong một chủng tộc nào đó, cạo bỏ râu tóc, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, thật sự hành trên vô lượng phước tích chứ không chỉ hành trên một phước tích, do bởi sự học đạo.
- Có ba thị hiện: Như ý túc thị hiện, chiêm nghiệm thị hiện và giáo huấn thị hiện. Này Ma-nạp, thế nào là như ý túc thị hiện? Nếu có một Sa-môn, Phạm chí có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần; đối với như ý túc, tâm được tự tại; hành vô lượng công đức của như ý túc như vậy, nghĩa là phân một thành nhiều, hợp nhiều thành một; một thì trụ trên một, có biết, có thấy; không bị trở ngại bởi vách đá, như đi trong hư không; chìm xuống đất như chìm xuống nước; đi trên nước như đi trên đất; ngồi xếp kiết-già mà bay trên không như chim bay liệng; với mặt trời và mặt trăng này thì có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần, có thể đưa tay bắt nắm; thân cao đến Phạm thiên. Này Ma-nạp, đó là như ý túc thị hiện.
Này Ma-nạp, thế nào là chiêm niệm thị hiện? Hoặc có một Sa-môn, Phạm chí, do nơi tướng dạng của người khác mà đoán được ý tưởng của họ: “Người ấy có ý tưởng như thế này. Người ấy có ý tưởng như thế kia. Người ấy thật sự có ý tưởng như vậy.” Chiêm nghiệm vô lượng, chẳng phải chiêm nghiệm ít, nhưng tất cả đều chắc thật, không phải là những giả thiết viển vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để đoán biết ý tưởng của họ, nhưng do nghe tiếng của chư thiên và loài phi nhân mà đoán biết được ý tưởng của người khác: “Người ấy có ý tưởng như thế này. Người ấy có ý tưởng như thế kia. Người ấy thực sự có ý tưởng như vậy.” Chiêm nghiệm vô lượng, chẳng phải chiêm nghiệm ít, nhưng tất cả đều chắc thật, không phải là những giả thiết viển vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để đoán biết ý tưởng của họ, cũng không nghe tiếng của chư thiên và các loài phi nhân để đoán biết ý tưởng của họ, nhưng do tâm niệm của người khác, tâm tư của người khác, ngôn thuyết của người khác; sau khi nghe tiếng rồi, đoán biết được ý tưởng của người khác: “Người ấy có ý tưởng như thế này. Người ấy có ý tưởng như thế kia. Người ấy thực sự có ý tưởng như vậy.” Chiêm nghiệm vô lượng, chẳng phải chiêm nghiệm ít, nhưng tất cả đều chắc thật, chứ không phải là những giả thiết viển vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để đoán biết ý tưởng của họ, cũng không nghe tiếng của chư thiên và các loài phi nhân để đoán biết ý tưởng của người khác, cũng không do nơi tâm niệm của người khác, nơi tâm tư, nơi ngôn thuyết của người khác, sau khi nghe rồi đoán biết ý tưởng của người khác; nhưng do thấy người khác nhập vào định không giác không quán; sau khi thấy bèn nghĩ rằng: “Như Hiền giả này thì không có niệm, không có tư, sở nguyện như ý. Hiền giả kia ra khỏi định này với niệm như vậy. Vị ấy ra khỏi định này sẽ có tâm niệm như vậy, như vậy.” Người này đoán biết việc quá khứ, đoán biết việc tương lai, đoán biết việc hiện tại, những điều được làm từ lâu, những điều được nói từ lâu, đoán biết được nơi yên tĩnh, sống nơi yên tĩnh, cũng đoán biết tất cả tâm pháp và tâm sở hữu pháp. Đó gọi là chiêm nghiệm thị hiện.
Này Ma-nạp, thế nào là giáo huấn thị hiện? Ở đây, một Sa-môn, Phạm chí tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Rồi vị ấy giảng thuyết lại cho người khác nghe rằng: “Ta tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.’ Các ông hãy lại đây và hãy tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.’” Rồi người đó cũng tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.” Rồi người đó cũng lại giảng thuyết cho người khác. Cứ như vậy, lần lượt truyền đi cho đến vô lượng trăm ngàn. Này Ma-nạp, đó là giáo huấn thị hiện. Trong ba thị hiện này thì thị hiện nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
– Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần; đối với như ý túc, tâm được tự tại, cho đến thân cao đến Phạm thiên. Bạch Cù-đàm, người này tự tác, tự hữu, tự thọ báo. Bạch Cùđàm, trong các thị hiện thì sự thị hiện này được gọi là đại pháp. Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào do nơi tướng dạng mà đoán biết ý tưởng của người khác, cho đến các tâm pháp và tâm sở hữu, thì bạch Cù-đàm, người này cũng tự tác, tự hữu, tự thọ báo ấy. Bạch Cù-đàm, trong các loại thị hiện, sự thị hiện này được gọi là đại pháp. Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.” Rồi vị ấy thuyết giảng cho người khác nữa, cứ như vậy, lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng. Bạch Cù-đàm, trong ba thị hiện, sự thị hiện này là tối thượng, tối diệu, tối thắng.
Thế Tôn lại hỏi Ma-nạp Thương-ca-la:
- Trong ba thị hiện này, ông tán thán sự thị hiện nào?
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
- Trong ba thị hiện, tôi tán thán Sa-môn Cù-đàm. Vì sao vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, tâm được tự tại, cho đến thân cao bằng Phạm thiên. Sa-môn Cù-đàm do nơi tướng dạng của người khác mà biết ý tưởng của người khác, cho đến đoán biết các tâm và tâm sở hữu pháp. Sa-môn Cù-đàm thị hiện với đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi hành đạo này, đạo tích này, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Sa-môn Cù-đàm thuyết giảng cho người khác, rồi người khác thuyết giảng cho người khác nữa. Như vậy, lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng. Bạch Cù-đàm, cho nên, đối với ba thị hiện, tôi tán thán Sa-môn Cù-đàm.
Rồi Thế Tôn nói:
- Ma-nạp, ông khéo thấu suốt vấn đề này. Vì sao? Thật sự Ta có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần; đối với như ý túc, tâm được tự tại, cho đến thân cao bằng Phạm thiên. Này Ma-nạp, Ta do tướng dạng người khác mà biết được ý tưởng của người khác, cho đến đoán biết tâm và tâm sở hữu pháp. Này Ma-nạp, Ta tự hành đạo như vậy, đạo tích như vậy; và sau khi tự hành đạo này, hành đạo tích này, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết như thật: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Rồi Ta thuyết giảng cho người khác. Người khác cũng thuyết giảng cho người khác nữa. Như vậy, lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng. Này Ma-nạp, cho nên ông khéo thấu suốt vấn đề này. Ông hãy biết như vậy! Hãy khéo thọ trì! Vì sao? Bởi vì ý nghĩa được nói này phải như vậy.
Lúc bấy giờ, Ma-nạp Thương-ca-la bạch:
- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu! Bạch Thiện Thệ, con đã rõ! Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến khi mạng chung!
Đức Phật thuyết như vậy, Ma-nạp Thương-ca-la, Tôn giả A-nan và các Tỳkheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.