Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá, ở trong núi Thứu Nham.
Bấy giờ, vua nước Ma-kiệt-đà là A-xà-thế, con bà Vi-đề-hy, cùng với nước Bạt-kỳ thù nghịch nhau. Vua A-xà-thế thường ở giữa quyến thuộc, nhiều lần nói rằng: “Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần. Nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách.”
Khi ấy, Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà, con bà Vi-đề-hy, nghe đức Thế Tôn du hóa tại thành Vương Xá, ở núi Thứu Nham nên nói với Đại thần Vũ-thế:
- Ta nghe Sa-môn Cù-đàm du hóa tại thành Vương Xá, ở núi Thứu Nham. Này Vũ-thế, ông hãy đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm, nhân danh ta mà thăm hỏi Thánh thể có được an vui, không bịnh, sức lực có được bình thường hay không. Rồi hãy nói như vầy: “Kính bạch Sa-môn Cù-đàm, Vua A-xà-thế nước Makiệt-đà, con bà Vi-đề-hy, cùng với nước Bạt-kỳ thù nghịch nhau. Vua A-xà-thế thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần nói rằng: ‘Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần. Nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách.’ Bạch Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề này, Ngài dạy như thế nào?” Này Vũ-thế, nếu Sa-môn Cù-đàm có dạy những gì thì ông hãy cố gắng ghi nhớ, thọ trì. Vì sao? Bởi lẽ, người như vậy, nhất định không khi nào nói dối.
Đại thần Vũ-thế vâng lời vua dạy xong, lên một cỗ xe rất đẹp và cùng năm trăm cỗ xe khác ra khỏi thành Vương Xá, đi đến núi Thứu Nham và leo lên núi Thứu Nham, rồi xuống xe, đi bộ đến chỗ Phật. Đại thần Vũ-thế nói lời chào hỏi với đức Thế Tôn rồi ngồi sang một bên và thưa:
- Bạch Cù-đàm, Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà, con bà Vi-đề-hy, kính thăm hỏi Thánh thể có được an vui, không bịnh, sức lực có được bình thường chăng? Bạch Cù-đàm, Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà, con bà Vi-đề-hy, cùng với nước Bạt-kỳ thù nghịch nhau. Vua A-xà-thế thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần nói rằng: “Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần. Nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách.” Bạch Sa-môn Cù-đàm, vấn đề này, Ngài dạy như thế nào?
Đức Thế Tôn nghe rồi bảo:
- Này Vũ-thế, xưa kia Ta đã từng đi đến nước Bạt-kỳ, nước đó có ngôi chùa tên là Giá-hòa-la. Lúc ấy, này Vũ-thế, Ta giảng nói bảy pháp không suy thoái cho người nước Bạt-kỳ nghe, người nước Bạt-kỳ có thể vâng thọ và thực hành bảy pháp không suy thoái đó. Này Vũ-thế, nếu người dân nước Bạt-kỳ thực hành được bảy pháp không suy thoái và không trái phạm thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu được!
Đại thần Vũ-thế bạch đức Thế Tôn:
- Bạch Sa-môn Cù-đàm, về việc này, chỉ nói một cách tóm tắt chứ không phân biệt rộng rãi, chúng con không thể hiểu được nghĩa này. Kính xin Sa-môn Cù-đàm phân biệt rộng rãi để chúng con được biết ý nghĩa này!
Đức Thế Tôn bảo:
- Này Vũ-thế, hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ giảng và nói rộng rãi ý nghĩa này cho ông nghe!
Đại thần Vũ-thế vâng lời lắng nghe.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu Phật. Đức Thế Tôn quay lại và hỏi A-nan:
- Thầy có từng nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo.
Đức Thế Tôn liền bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu người Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu được.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe người nước Bạt-kỳ cùng hội họp trong sự đoàn kết, cùng làm công việc của Bạt-kỳ trong sự đoàn kết và giải tán trong sự đoàn kết chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ cùng hội họp trong sự đoàn kết, cùng làm công việc của Bạt-kỳ trong sự đoàn kết và giải tán trong sự đoàn kết.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu người Bạt-kỳ cùng hội họp trong sự đoàn kết, cùng làm công việc của Bạt-kỳ trong sự đoàn kết và giải tán trong sự đoàn kết thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa ban bố thì không ban bố thêm, những điều đã ban bố thì không cải đổi, những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa ban bố thì không ban bố thêm, những điều đã ban bố thì không cải đổi, những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa ban bố thì không ban bố thêm, những điều đã ban bố thì không cải đổi, những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ được nghiêm chỉnh phụng hành thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe người nước Bạt-kỳ không dùng thế lực để xâm phạm vợ và con gái của người khác chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ không dùng thế lực để xâm phạm vợ và con gái của người khác.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu người nước Bạt-kỳ không dùng thế lực để xâm phạm vợ và con gái của người khác thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có những bậc danh đức đáng tôn trọng thì những người Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường chăng? Và họ có nghe theo lời dạy của những bậc ấy chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu có những bậc danh đức đáng tôn trọng thì những người Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường và họ có nghe theo lời dạy của những bậc ấy.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Này Vũ-thế, nếu người nước Bạt-kỳ có những bậc danh đức đáng tôn trọng thì những người Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường và họ có nghe theo lời dạy của những bậc ấy thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu được.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe nước Bạt-kỳ nếu có chùa, miếu cổ thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu những tập tục đã làm chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ nếu có chùa, miếu cổ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu những tập tục đã làm.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu nước Bạt-kỳ có chùa, miếu cổ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu những tập tục đã làm thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
- Thầy có từng nghe nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến; thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì vui thích ở lâu; thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu cầu sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến; thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì vui thích ở lâu; thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu cầu sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang.
Đức Thế Tôn lại bảo Đại thần Vũ-thế:
- Nếu nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến; thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì vui thích ở lâu; thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu cầu sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Này Vũ-thế, nước Bạt-kỳ đã thực hành bảy pháp không suy thoái này, nếu vâng giữ bảy pháp không suy thoái này thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy yếu.
Khi ấy, Đại thần Vũ-thế liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai hữu, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
- Bạch Cù-đàm, dù cho nước Bạt-kỳ chỉ thành tựu một pháp không suy thoái thì Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà, con bà Vi-đề-hy cũng không thể khuất phục họ được, huống gì, họ đầy đủ cả bảy pháp không suy thoái. Bạch Cù-đàm, con bận nhiều việc nước, xin được từ giã lui về!
Đức Thế Tôn nói:
- Ông muốn lui về thì cứ tùy ý!
Lúc đó, Đại thần Vũ-thế nghe lời Phật dạy, hết lòng vâng giữ, đi quanh đức Thế Tôn ba vòng rồi ra về.
Sau khi Đại thần Vũ-thế ra về chẳng bao lâu, đức Thế Tôn quay lại bảo Tôn giả A-nan:
- Này A-nan, nếu có những Tỳ-kheo hiện đang sống rải rác ở núi Thứu Nham thì thầy hãy báo cho tất cả tập trung tại giảng đường. Sau khi tất cả đã tụ họp xong, hãy đến cho Ta hay!
Tôn giả A-nan liền vâng lời Phật dạy:
Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Ngay khi đó, Tôn giả A-nan đi truyền lệnh: “Những Tỳ-kheo nào hiện đang sống rải rác ở núi Thứu Nham, tất cả tập trung tại giảng đường.”
Sau khi tất cả đã tập hợp xong, Tôn giả trở lại chỗ Phật, cúi đầu làm lễ rồi đứng sang một bên và bạch:
- Bạch Thế Tôn, con đã truyền lệnh: “Nếu có những Tỳ-kheo nào hiện đang sống rải rác ở núi Thứu Nham thì tất cả hãy tập trung tại giảng đường.” Giờ đây các vị đã tập hợp xong, kính mong Thế Tôn tự biết thời!
Bấy giờ, đức Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo, rồi nói với các thầy Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái, các thầy hãy lắng nghe kỹ và khéo suy nghĩ!
Lúc ấy, các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu chúng Tỳ-kheo thường xuyên hội họp, tụ tập đông đảo thì chúng Tỳkheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo cùng hội họp trong sự đoàn kết, cùng làm việc trong sự đoàn kết, cùng giải tán trong sự đoàn kết thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo đối với những việc chưa ban bố thì không ban bố thêm, những việc đã ban bố thì không thay đổi, những giới luật do Ta nói ra được phụng hành nghiêm chỉnh thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo không bị chi phối bởi sự hữu đưa đến vị lai, hiện hành với hỷ dục, ái lạc, đời sống như vầy, như kia thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu trong chúng Tỳ-kheo có bậc Trưởng lão Thượng tôn đồng học Phạm hạnh, các thầy Tỳ-kheo thảy đều tôn kính, cung phụng, cúng dường và nghe theo lời dạy của các vị ấy thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo đối với rừng vắng, rừng sâu, sườn núi cao, chỗ thanh tịnh nhàn cư, vắng bặt không có tiếng động, xa lánh sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoan lạc an trú không rời thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thảy đều ủng hộ các vị Phạm hạnh, hết sức tôn trọng, ái kính; thường mong muốn các vị Phạm hạnh chưa đến thì đến, đã đến rồi thì vui thích ở lâu; thường không để các vị ấy thiếu thốn những nhu cầu sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Lúc ấy, đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác, các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu Tỳ-kheo đối với Tôn sư mà hết sức cung kính, cúng dường, phụng sự thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái. Nếu chúng Tỳ-kheo đối với Pháp, với Tăng, với giới, với sự không phóng dật, với sự cung cấp và đối với định mà hết lòng cung kính, cúng dường, phụng sự thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi thế nghiệp, không hoan lạc nơi thế nghiệp, không thân cận thế nghiệp thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái. Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi phiếm luận, không hoan lạc nơi phiếm luận, không thân cận nơi phiếm luận; không hành nơi tụ hội, không hoan lạc nơi tụ hội, không thân cận nơi tụ hội; không hành nơi sự kết hợp hỗn tạp, không hoan lạc trong sự kết hợp hỗn tạp, không thân cận sự kết hợp hỗn tạp; không hành thụy miên, không hoan lạc thụy miên, không thân cận thụy miên; không vì lợi dưỡng, không vì tiếng khen, không vì người khác mà tu hành Phạm hạnh; đối với quả thấp, đối với quả cao, không nửa chừng gián đoạn, nỗ lực hướng thượng thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu chúng Tỳ-kheo thành tựu tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, bác văn tài, thí tài và thành tựu tuệ tài thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
- Những gì là bảy?
Đức Phật dạy:
Nếu chúng Tỳ-kheo thành tựu tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực và thành tựu tuệ lực thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác, các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu chúng Tỳ-kheo tu niệm giác chi, y trên xả ly, y trên vô dục, y trên diệt tận, thú hướng xuất yếu; cũng vậy, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định; tu xả giác chi, y trên xả ly, y trên vô dục, y trên diệt tận, thú hướng xuất yếu thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Ta lại nói cho các thầy nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là bảy?
Nếu Tỳ-kheo cần ban cho luật diện tiền thì ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm thì ban cho luật ức niệm, cần ban cho luật bất si thì ban cho luật bất si, cần ban cho luật tự phát lồ thì ban cho luật tự phát lồ, cần ban cho luật cư thì ban cho luật cư, cần ban cho luật triển chuyển thì ban cho luật triển chuyển, nếu trong chúng khởi lên sự tranh tụng thì đúng theo pháp diệt tránh như liệng bỏ giẻ rách để chấm dứt thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Nay Ta nói cho các thầy nghe về sáu pháp ủy lạo. Các thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kính vâng, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
- Những gì là sáu?
Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng Phạm hạnh; đó là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn. Cũng vậy, khẩu nghiệp từ hòa, ý nghiệp từ hòa.
Lợi lộc nào đúng theo pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình; với phần lợi như vậy, mang chia sẻ cho các vị đồng Phạm hạnh; đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như đất không theo ai, được Thánh khen ngợi, đủ đầy, cẩn thận thọ trì; với giới phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh; đó là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
Nếu có kiến giải về sự xuất yếu của bậc Thánh, có sự thấy rõ, thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ; với kiến phần như vậy, cũng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh; đó là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn. Nhân đây nên Ta nói sáu pháp ủy lạo.
Đức Phật thuyết như vậy, các thầy Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.