Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá, trong rừng Nhiêu-hà-mô.
Bấy giờ, trong thành Vương Xá có con của vị cư sĩ tên là Thiện Sanh. Khi người cha sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối trăn, khéo dạy, khéo nhắc:
– Này Thiện Sanh, sau khi cha mất, con phải chắp tay lạy sáu phương. Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì ta hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi ta đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại ta. Cũng như vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì ta hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi ta đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại ta.
Thiện Sanh, con vị cư sĩ nghe cha dạy xong, thưa rằng:
– Con xin vâng theo lời cha dạy bảo!
Sau khi cha mất, vào mỗi sáng sớm, Thiện Sanh tắm gội xong, mặc áo sô- ma mới, tay cầm lá Câu-xá còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương: “Phương Đông nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi. Cũng vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.”
Khi ấy, lúc đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, đức Thế Tôn mang y, cầm bát vào thành Vương Xá để khất thực. Khi đức Thế Tôn mang y, cầm bát vào thành Vương Xá khất thực, từ xa trông thấy Thiện Sanh, con vị cư sĩ, vào lúc sáng sớm, tắm gội, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá Câu-xá còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương: “Phương Đông nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi. Cũng vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.”
Đức Thế Tôn thấy thế, liền đi đến gần, hỏi Thiện Sanh, con vị cư sĩ:
– Con của vị cư sĩ, ông thọ nhận sự giáo hóa của Sa-môn, Phạm chí nào dạy ông cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng, vào mỗi buổi sáng, tắm rửa, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá Câu-xá còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương: “Phương Đông nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi. Cũng vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.”
Thiện Sanh, con vị cư sĩ thưa:
– Bạch Thế Tôn, không có vị Sa-môn, Phạm chí nào dạy con cả. Bạch Thế Tôn, cha của con khi sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối lại với con, khéo dạy, khéo nhắc: “Này Thiện Sanh, sau khi cha mất, con nên chắp tay mà lễ sáu phương: ‘Phương Đông nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi. Cũng vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.’” Bạch Thế Tôn, con vâng lời trối của cha nên con cung kính, cúng dường, thờ phụng, mỗi sáng sớm, tắm gội, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá Câu-xá còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương: “Phương Đông nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi. Cũng vậy, phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng người đó rồi; người đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.”
Đức Thế Tôn sau khi nghe như vậy, Ngài nói:
– Con của vị cư sĩ, Ta nói có sáu phương, chớ không nói là không có. Này con của vị cư sĩ, nếu có người khéo phân biệt sáu phương, xa lìa những nghiệp cấu ác và bất thiện ở bốn phương; người đó ngay trong đời này đáng được cung kính, tôn trọng, sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sẽ sanh đến thiện xứ, sanh vào cõi trời. Này con của vị cư sĩ, chúng sanh có bốn loại nghiệp, có bốn thứ ô uế. Thế nào là bốn? Này con của cư sĩ, sát sanh là một loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh; trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ là một loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Sát sanh cùng trộm cắp,
Tà dâm, lấy vợ người,
Lời nói không chân thật,
Bậc trí không ngợi khen.
Này con của vị cư sĩ, con người do bốn việc mà bị nhiều tội lỗi. Bốn việc đó là gì? Đó là ham muốn, sân hận, sợ hãi và ngu si.
Khi ấy, đức Phật dạy tiếp bài kệ :
Dục, nhuế, bố và si,
Làm hạnh ác, phi pháp,
Thanh danh tất bị diệt,
Như mặt trăng sắp tàn.
Này con của vị cư sĩ, con người do bốn việc mà được nhiều phước báo. Bốn việc đó là gì? Đó là không ham muốn, không sân hận, không sợ hãi và không ngu si.
Khi ấy, đức Thế Tôn dạy bài kệ:
Đoạn dục, không nhuế, bố,
Không si, hành chánh hạnh,
Thanh danh được tròn đủ,
Như mặt trăng dần đầy.
Này con của vị cư sĩ, kẻ mong cầu của cải nên biết có sáu điều phi pháp. Sáu điều đó là gì? Một là bằng mọi sự chơi bời bài bạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là rong chơi không phải lúc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Ba là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật là phi pháp. Bốn là gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp. Năm là đam mê kỹ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Sáu là lười biếng mà mong cầu tài vật là phi pháp.
Này con của vị cư sĩ, với kẻ chơi bời bài bạc, nên biết có sáu tai họa. Sáu tai họa đó là gì? Một là thắng thì sanh oán thù. Hai là thua thì sanh xấu hổ. Ba là mắc nợ thì ngủ không yên. Bốn là khiến kẻ thù vui mừng. Năm là khiến thân thuộc lo âu. Sáu là nói giữa đám đông không ai tin dùng.
Này con của vị cư sĩ, người chơi bời bài bạc thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Này con của vị cư sĩ, với người rong chơi không phải lúc, nên biết có sáu loại tai họa. Sáu loại đó là gì? Một là không giữ được mình. Hai là không giữ được tài vật. Ba là không giữ được vợ con. Bốn là bị người nghi ngờ. Năm là sanh nhiều khổ họa. Sáu là bị người hủy báng.
Này con của vị cư sĩ, người rong chơi không phải lúc thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Này con của vị cư sĩ, với người đam mê rượu chè, nên biết có sáu loại tai họa. Sáu loại đó là gì? Một là tài sản hiện tại bị tổn thất. Hai là thân bị nhiều bệnh hoạn. Ba là đấu tranh càng tăng trưởng. Bốn là dễ lộ điều giấu kín. Năm là tổn thất danh tiếng. Sáu là mất trí, thành ngu.
Này con của vị cư sĩ, người đam mê rượu chè thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Này con của vị cư sĩ, với người gần gũi ác tri thức, nên biết có sáu tai họa. Sáu tai họa đó là gì? Một là thân cận giặc cướp. Hai là thân cận kẻ lừa gạt. Ba là thân cận kẻ say sưa. Bốn là thân cận kẻ buông lung. Năm là tụ hội chơi bời. Sáu là lấy đó làm thân hữu, lấy đó làm bạn đồng hành.
Này con của vị cư sĩ, người gần gũi ác tri thức thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Này con của vị cư sĩ, với người đam mê kỹ nhạc, nên biết có sáu tai họa. Sáu tai họa đó là gì? Một là thích nghe ca. Hai là thích xem múa. Ba là thích đi đánh nhạc. Bốn là thích xem lắc chuông. Năm là thích vỗ tay. Sáu là thích tụ hội đông người.
Này con của vị cư sĩ, người đam mê kỹ nhạc không phải lúc thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Này con của vị cư sĩ, với người lười biếng, nên biết có sáu tai họa. Sáu tai họa đó là gì? Một là quá sớm, không làm việc. Hai là quá trễ, không làm việc. Ba là quá lạnh, không làm việc. Bốn là quá nóng, không làm việc. Năm là quá no, không làm việc. Sáu là quá đói, không làm việc.
Này con của vị cư sĩ, người lười biếng không phải lúc thì không kinh doanh sự nghiệp, không kinh doanh sự nghiệp thì công nghiệp không thành; tài vật chưa có thì không thể có được, tài vật đã có thì dần dà bị tiêu hao.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Bài bạc, đuổi theo sắc,
Nghiện rượu, thích đánh nhạc,
Gần gũi ác tri thức,
Lười biếng, không làm việc
Buông lung, không giữ mình,
Những thứ ấy hại người.
Tới lui không giữ gìn,
Tà dâm, lấy vợ người,
Trong tâm thường kết oán,
Cầu nguyện không có lợi,
Uống rượu, nhớ nữ sắc,
Những thứ ấy hại người.
Nặng nề các việc ác,
Ngoan cố, không nghe lời,
Chửi Sa-môn, Phạm chí,
Điên đảo có tà kiến,
Hung bạo, làm nghiệp dữ,
Những thứ ấy hại người.
Thiếu thốn, không của cải,
Uống rượu, mất áo quần,
Mang nợ như chìm suối,
Kẻ ấy phá họ hàng.
Thường đi đến lò rượu,
Gần gũi bằng hữu xấu,
Muốn được của không được,
Lấy bạn bè làm vui;
Có nhiều bằng hữu ác,
Thường theo bạn không lành,
Đời nay và đời sau,
Hai đời đều bại hoại.
Người làm ác giảm lần,
Làm lành lần hưng thạnh,
Người tập thắng càng tăng,
Cho nên phải tập thắng.
Tập thắng thời được thắng,
Thường theo trí tuệ thắng,
Càng được giới thanh tịnh,
Cùng an vui vi diệu.
Ngày thì ưa ngủ nghỉ,
Đêm lại thích rong chơi,
Buông lung, thường uống rượu,
Ở nhà không yên được.
Quá lạnh và quá nóng,
Đều lười biếng không làm,
Rốt cuộc không sự nghiệp,
Không kiếm ra tài vật.
Hoặc lạnh và quá nóng,
Bất cần như ngọn cỏ,
Siêng làm việc như vậy,
Suốt đời đều an vui.
Này con của vị cư sĩ, có bốn hạng người không thân mà hình như thân. Bốn hạng người đó là gì? Một là biết việc thì chẳng thân mà hình như thân. Hai là trước mặt nói lời dịu ngọt thì chẳng thân mà hình như thân. Ba là lời nói thì chẳng thân mà hình như thân. Bốn là bạn đưa đến chỗ ác thì chẳng thân mà hình như thân.
Này con của vị cư sĩ, do bốn trường hợp nên người biết việc dù chẳng phải thân mà hình như thân. Bốn trường hợp đó là gì? Một là do lấy sự biết việc mà đoạt của. Hai là cho ít, lấy nhiều. Ba là hoặc vì sợ mà làm thân. Bốn là vì lợi mà kết thân.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Người lấy biết làm việc,
Nói năng rất êm dịu,
Sợ, vì lợi, kết thân,
Biết chẳng thân,tuồng thân,
Nên xa lìa kẻ ấy,
Như sợ hãi trên đường.
Này con của vị cư sĩ, do bốn trường hợp, trước mặt nói lời dịu ngọt, dù chẳng thân mà hình như thân. Bốn trường hợp đó là gì? Một là bày ra những việc hay đẹp. Hai là dạy làm các việc ác. Ba là trước mặt ngợi khen. Bốn là sau lưng nói xấu.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Nếu đặt chuyện hay ho,
Dạy làm ác,bất thiện,
Đối mặt thì ngợi khen,
Sau lưng lại nói xấu.
Nếu biết hay và ác,
Và biết hai lối nói,
Dù thân, không nên thân;
Biết kẻ ấy như vậy,
Nên xa lìa kẻ ấy,
Như sợ hãi trên đường.
Này con của vị cư sĩ, có bốn trường hợp, ngôn ngữ, dù chẳng phải thân mà hình như thân. Bốn trường hợp đó là gì? Một là bàn nhảm việc đã qua. Hai là bàn nhảm việc ngày mai. Ba là nói lời không thật. Bốn là bàn nhảm việc hiện tại không thành: “Ta nên làm hay không nên làm.”
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Bàn nhảm việc xưa sau,
Bàn nhảm việc đang diệt,
“Nên làm hay không làm”,
Biết, chẳng thân như thân,
Nên xa lìa kẻ ấy,
Như sợ hãi trên đường.
Này con của vị cư sĩ, có bốn trường hợp bạn dẫn đến chỗ ác, dù chẳng phải chỗ thân cận mà hình như thân cận. Bốn trường hợp đó là gì? Một là dạy các việc bài bạc. Hai là dạy đi rong chơi không phải thời. Ba là dạy uống rượu. Bốn là dạy thân cận kẻ ác.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Dạy các việc bài bạc,
Uống rượu, lấy vợ người,
Tập hạ, không tập thắng,
Nó diệt như trăng tàn,
Nên xa lìa kẻ ấy,
Như sợ hãi trên đường.
Này con của vị cư sĩ, nên biết, có bốn hạng bạn lành. Bốn hạng đó là gì? Một là cùng chịu khổ vui, nên biết đó là bạn lành. Hai là thương tưởng, nên biết đó là bạn lành. Ba là cùng làm lợi, nên biết đó là bạn lành. Bốn là giúp đỡ, nên biết đó là bạn lành.
Này con của vị cư sĩ, do bốn việc mà cùng khổ cùng vui, nên biết là bạn lành. Bốn việc đó là gì? Một là quên mình vì người. Hai là quên tài sản vì người. Ba là quên vợ con vì người. Bốn là biết nghe lời.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Xả dục, tài, vợ con,
Lời nói hay kham nhẫn,
Biết thân cùng khổ vui,
Kẻ trí nên làm thân.
Này con của vị cư sĩ, do bốn việc mà thương tưởng, nên biết là bạn lành. Bốn việc đó là gì? Một là dạy cho Diệu pháp. Hai là ngăn cấm ác pháp. Ba là khen ngợi trước mặt. Bốn là tránh oán gia.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Dạy lành, cản việc ác,
Khen trước mặt, tránh thù,
Biết bạn lành thương tưởng,
Kẻ trí nên làm thân.
Này con của vị cư sĩ, do bốn việc mà cầu lợi, nên biết là bạn lành. Bốn việc đó là gì? Một là phát lồ việc kín ra. Hai là không che giấu việc kín. Ba là được lợi nên vui mừng. Bốn là không được lợi không buồn.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Việc mật bày, không giấu,
Lợi vui không cần buồn,
Biết bạn lành cầu lợi,
Kẻ trí nên thường thân.
Này con của vị cư sĩ, do bốn việc mà giúp đỡ, nên biết là bạn lành. Bốn việc đó là gì? Một là biết của cải hết. Hai là biết của cải hết liền cung cấp thêm. Ba là thấy buông lung liền khuyên ngăn. Bốn là thường thương tưởng.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Biết của hết, cho thêm,
Buông lung khuyên, thương tưởng,
Biết bạn lành giúp đỡ,
Kẻ trí nên làm thân.
Này con của vị cư sĩ, trong Pháp, Luật của bậc Thánh có sáu phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới.
Này con của vị cư sĩ, như đối với phương Đông, con đối với cha mẹ cũng vậy. Người con nên lấy năm điều thờ kính, phụng dưỡng cha mẹ. Năm điều đó là gì? Một là tăng thêm của cải. Hai là cáng đáng mọi việc. Ba là dâng cha mẹ những gì người muốn. Bốn là không tự tác, không trái ý. Năm là tất cả vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ. Người con dùng năm việc như trên để phụng dưỡng, thờ kính cha mẹ; cha mẹ cũng lấy năm việc để chăm sóc các con. Năm việc đó là gì? Một là thương yêu con cái. Hai là cung cấp không thiếu. Ba là khiến con không mang nợ. Bốn là gả cưới xứng đáng. Năm là cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con. Cha mẹ dùng năm điều ấy chăm sóc các con.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương Đông có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Đông là giữa con với cha mẹ. Này con của vị cư sĩ, nếu người từ hiếu với cha mẹ, chắc chắn có sự tăng ích chớ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, như phương Nam, học trò đối với thầy cũng vậy. Học trò nên biết năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm điều đó là gì? Một là khéo vâng lời. Hai là khéo giúp đỡ hầu hạ. Ba là hăng hái. Bốn là nghề nghiệp giỏi. Năm là thường thờ kính thầy. Đệ tử lấy năm điều ấy cung kính, phụng dưỡng sư trưởng; sư trưởng cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử. Năm việc đó là gì? Một là dạy cho nghề. Hai là dạy nhanh chóng. Ba là dạy hết những điều mình biết. Bốn là gửi đến những chỗ lành. Năm là gửi gắm bậc thiện tri thức. Sư trưởng lấy năm điều ấy mà săn sóc đệ tử.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương Nam có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Nam là học trò đối với thầy. Này con của vị cư sĩ, nếu người từ thuận đối với sư trưởng, chắc chắn có sự tăng ích chớ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, như phương Tây, người chồng đối với vợ cũng vậy. Người chồng nên lấy năm điều mà yêu thương, cấp dưỡng vợ. Năm điều đó là gì? Một là thương yêu vợ. Hai là không khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn là ở trong nhà để vợ được tự do. Năm là xem vợ như chính mình. Người chồng lấy năm điều để thương yêu, cấp dưỡng vợ; người vợ phải lấy mười ba điều khéo léo kính thuận chồng. Mười ba điều ấy là gì? Một là thương yêu, kính trọng chồng. Hai là cung phụng, kính trọng chồng. Ba là nhớ nghĩ đến chồng. Bốn là lo lắng các công việc. Năm là khéo tiếp đãi bà con. Sáu là trước mặt thì đưa mắt hầu đợi. Bảy là sau lưng thì cử chỉ yêu thương. Tám là lời nói thành thật. Chín là không khóa kín cửa phòng. Mười là thấy đến thì ca ngợi. Mười một là trải sẵn giường mà đợi. Mười hai là bày dọn đồ ăn uống ngon lành, sạch sẽ. Mười ba là cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Người vợ lấy mười ba việc để khéo léo kính thuận chồng.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương Tây có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Tây là giữa vợ với chồng. Này con của vị cư sĩ, nếu người từ mẫn với vợ, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, như phương Bắc, chủ nhà đối với tôi tớ cũng như vậy. Người chủ nhà nên lấy năm điều thương mến, cung cấp cho tôi tớ. Năm điều ấy là gì? Một là tùy sức mà sai làm việc. Hai là tùy lúc mà cho ăn. Ba là tùy lúc mà cho uống. Bốn là hết ngày cho nghỉ. Năm là bệnh hoạn cấp thuốc thang. Chủ nhà lấy năm việc này thương xót, cung cấp cho tôi tớ; tôi tớ cũng nên lấy chín điều mà phụng sự chủ nhà. Chín điều ấy là gì? Một là tùy lúc làm việc. Hai là chuyên chú làm việc. Ba là làm tất cả việc. Bốn là trước mặt thì đưa mắt hầu đợi. Năm là sau lưng thì thương kính mà làm. Sáu là nói lời thành thật. Bảy là khi chủ hoạn nạn thì không bỏ đi. Tám là khi đi đến phương xa thì nên khen ngợi chủ. Chín là khen chủ nhà rộng rãi. Tôi tớ lấy chín điều khéo léo phụng sự chủ nhà.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương Bắc có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Bắc là giữa chủ nhà và tôi tớ. Này con của vị cư sĩ, nếu có người thương xót tôi tớ, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, như phương dưới, bằng hữu đối với bằng hữu cũng vậy. Bằng hữu nên lấy năm điều để ái kính, cung cấp bằng hữu. Năm điều ấy là gì? Một là ái kính. Hai là không khinh thường. Ba là không dối gạt. Bốn là cho tặng đồ quý. Năm là giúp đỡ. Bằng hữu lấy năm điều trên để ái kính, cung cấp bằng hữu; bằng hữu này cũng lấy năm điều để nhớ nghĩ đến bằng hữu. Năm điều đó là gì? Một là biết của cải hết. Hai là khi biết của cải đã hết thì cung cấp của cải. Ba là thấy buông lung thì khuyên răn. Bốn là thương nhớ. Năm là gặp hoạn nạn thì cho nương tựa. Bằng hữu lấy năm điều ấy để nhớ nghĩ đến bằng hữu.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương dưới có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương dưới là bằng hữu đối với bằng hữu vậy. Này con của vị cư sĩ, nếu người thương xót bằng hữu, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, như phương trên, thí chủ đối với Sa-môn, Phạm chí cũng vậy. Người thí chủ nên lấy năm điều để tôn kính, cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Năm điều ấy là gì? Một là không đóng kín cửa. Hai là thấy đến thì tán thán. Ba là sửa soạn chỗ ngồi mà đợi. Bốn là làm các món ăn uống ngon, sạch mà cúng. Năm là đúng như pháp mà hộ trì. Người thí chủ lấy năm điều
trên để cung kính, cúng dường Sa-môn, Phạm chí; Sa-môn, Phạm chí cũng lấy năm điều để khéo nhớ nghĩ đến thí chủ. Năm điều ấy là gì? Một là dạy cho có tín, hành tín và niệm tín. Hai là dạy các giới cấm. Ba là dạy nghe rộng. Bốn là dạy bố thí. Năm là dạy cho có huệ, hành tuệ và lập huệ. Sa-môn, Phạm chí lấy năm việc ấy để nghĩ nhớ đến thí chủ.
Này con của vị cư sĩ, như vậy, phương trên có hai trường hợp phân biệt. Này con của vị cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương trên là giữa thí chủ và Sa-môn, Phạm chí. Này con của vị cư sĩ, nếu người nào tôn kính, cúng dường Sa-môn, Phạm chí, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
Này con của vị cư sĩ, có bốn nhiếp sự. Bốn việc ấy là gì? Một là thi ân, bố thí. Hai là lời nói khả ái. Ba là làm lợi cho người. Bốn là làm lợi chung.
Rồi đức Thế Tôn nói bài kệ:
Tuệ thí và ái ngôn,
Thường vì người lợi hành,
Với tất cả đồng sự,
Khắp nơi đều vang danh.
Đời do đây vững chặt,
Như người giong ruổi xe.
Nhiếp sự này vắng mặt,
Con đối mẹ nên gì?
Ai làm nên hiếu thuận?
Con đối cha là chi?
Viên toàn nhiếp sự ấy,
Phước hựu thật huy hoàng.
Chiếu xa như ánh nhật,
Tiếng tốt truyền đi nhanh,
Thông minh, không nói cộc,
Như vậy, làm nên danh.
Thành tựu tín và giới,
Như vậy, làm nên danh.
Thức sớm, không giải đãi,
Thường cho người uống ăn,
Dìu dắt vào nẻo chánh,
Như vậy, làm nên danh.
Bạn bè cùng lân tuất,
Ái lạc cũng đồng hàng,
Giữa người thân, nhiếp sự,
Thù dịu như sư tử
Học nghề, học buổi đầu,
Kiếm lợi, kiếm sau đó,
Sản nghiệp đã dựng thành,
Phân chia làm bốn phần:
Để cung cấp ẩm thực,
Để điền giả nông canh,
Để kho tàng chất chứa,
Phòng khi hữu sự cần,
Gồm nông tang, thương cổ,
Thu xuất, lợi một phần,
Thứ năm để cưới vợ,
Thứ sáu làm nhà cửa.
Tại gia sáu sự này,
Hưng thịnh sống dư dả,
Tiền tài sẵn càng đầy,
Như nước xuôi biển cả.
Đời mưu sinh như vầy,
Như ong tìm hút nhụy,
Đời mưu sinh lâu dài,
Sống an lạc hưởng thọ.
Xuất tiền không xuất xa,
Không tản mác tung ra,
Không thể đem tài vật,
Cho hung bạo, ngoan tà.
Phương Đông là mẹ cha,
Phương Nam là tôn sư,
Phương Tây là thê tử,
Phương Bắc là nô tỳ,
Phương dưới là bằng hữu,
Phương trên bậc tịnh tu.
Nguyện lễ các phương ấy,
Phước đời này, đời sau,
Do lễ các phương ấy,
Thí chủ sanh trời cao.
Đức Phật thuyết như vậy, con của vị cư sĩ sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.