Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, trú trong động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại Lâm.
Bấy giờ, Thiên vương Thích nghe Phật du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, trú trong động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại Lâm. Khi ấy, Thiên vương Thích bảo Ngũ Kết nhạc tử:
- Ta nghe đức Thế Tôn du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, trú trong động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại Lâm. Này Ngũ Kết, ông hãy cùng ta đến yết kiến đức Thế Tôn.
Ngũ Kết nhạc tử thưa:
- Xin vâng!
Lúc đó, Ngũ Kết nhạc tử ôm đàn lưu ly cùng đi theo Thiên vương Thích. Chư thiên ở Tam Thập Tam thiên nghe Thiên vương Thích rất khao khát muốn gặp Phật. Bấy giờ, trong khoảnh khắc nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay, Thiên vương Thích cùng chư thiên Tam Thập Tam thiên và Ngũ Kết biến mất khỏi cõi trời Tam Thập Tam và hiện đến phía Đông thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại Lâm, cách động đá không xa.
Lúc bấy giờ, núi Bệ-đà-đề có hào quang chiếu sáng rực rỡ như lửa cháy. Nhân dân ở chung quanh núi thấy vậy, nghĩ rằng: “Núi Bệ-đà-đề bị lửa đốt cháy khắp nơi.”
Khi ấy, Thiên vương Thích sau khi đã đứng xuống tại một nơi, bảo rằng:
- Này Ngũ Kết, đức Thế Tôn là như vậy, Ngài ở nơi rừng vắng, trong rừng sâu, nơi gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt, không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, có đại oai đức. Chư thiên thảy đều hâm mộ đời sống xa lánh tĩnh tọa ấy, đời sống an ổn, khoái lạc ấy. Chúng ta chưa thông báo trước, không nên tự tiện bước tới. Này Ngũ Kết, ông hãy đi đến thông báo trước, sau đó chúng ta mới bước tới. Ngũ Kết thưa:
- Xin vâng!
Ngũ Kết sau khi vâng lời dạy của Thiên vương Thích, liền ôm đàn lưu ly đi trước đến động đá Nhân-đà-la, rồi nghĩ rằng: “Nên biết nơi này cách Phật không gần, cũng không xa, để Phật có thể biết được và nghe được âm thanh của ta.”
Khi đã đến đứng ở nơi kia, Ngũ Kết gảy đàn lưu ly và hát lên những bài tụng nói lên tình yêu, nói về rồng, nói về Sa-môn, nói về A-la-hán:
Hiền nương ơi!
Ta kính lễ phụ mẫu nàng,
Mặt trăng và Đam-phù-lâu,
Đã sanh nàng thù diệu,
Gây hoan lạc lòng ta.
Như nóng bức mong gió mát,
Như nóng khát mong nước lạnh,
Như vậy ta yêu nàng,
Như La-hán yêu Chánh pháp.
Như dòng nước khó giữ,
Lụy tình cũng như vậy,
Đời đời mong sống chung,
Như cúng dường Vô Trước.
Ao nước trong và mát,
Dưới đáy có cát vàng,
Như voi chúa nóng bức,
|Xuống ao tắm mặc tình.
Như voi bị móc câu,
Lòng ta bị nàng khuất phục,
Ta hành động, nàng không hay,
Ta yếu đuối nhưng với nàng chưa được.
Tâm ý ta hoàn toàn lệ thuộc,
Và phiền oan đã đốt cháy tim,
Và vì vậy không còn hoan lạc,
Như một người rơi vào miệng hùm.
Như Thích tử duy thiền tọa,
Hằng vui say trong sự nhất tâm,
Như Mâu-ni đạt thành giác ngộ,
Cũng diệu tịnh như ta được nàng.
Như niềm vui Đại Thánh Mâu-ni,
Do chứng đắc viên toàn giác đạo,
Niềm vui ta cũng ở nơi kia,
Hằng khao khát được nàng hội tụ.
Như người bịnh mong cầu thuốc chữa,|
Như đói ăn, hoài niệm thức ăn,
Ơi hiền nữ, mong lòng ta tắt,
Như nước ngừng cho ngọn lửa tàn.
Nếu ta có hành vi tạo phước,
Như cúng dường La-hán, Chân nhân,
Thọ báo ấy tức thành tịnh diệu,
Ta mong cùng hiền nữ sống chung.
Ta ước nguyện bên nàng vĩnh kiếp,
Không xa nàng sống lẻ đơn thân;
Và ta hẹn theo nàng được chết,
Không mong gì cách biệt ly sanh.
Ôi thiên đến cho tôi lời nguyện!
Bậc tôn cao Tam Thập Tam thiên,
Ôi Đại Thánh trên đời tối thượng!
Chứng cho đây lời nguyện vững bền.
Kính lễ bậc Hùng Lực,
Tối thượng giữa nhân gian,
Dứt trừ gai ái dục,
Con lạy đấng Nhật Thân.
Bấy giờ, đức Thế Tôn từ tam-muội dậy, tán thán Ngũ Kết nhạc tử:
- Lành thay, lành thay! Này Ngũ Kết, giọng ca của ông cùng với tiếng đàn hòa điệu, tiếng đàn và giọng ca hòa điệu. Giọng ca không đi ngoài tiếng đàn, tiếng đàn không đi ngoài giọng ca. Này Ngũ Kết, ông nhớ lại ngày xưa, ông có ca tụng bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên quan đến Sa-môn, liên quan đến La-hán này chăng?
Ngũ Kết thưa:
- Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhơn tự biết cho! Bạch Đại Tiên Nhơn, ngày xưa, khi Thế Tôn mới chứng Đại giác đạo, Ngài ở tại Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-thiền, dưới gốc cây A-xà-hòa-la Ni-câu-loại. Bấy giờ, con gái của nhạc vương Đam-phù-lâu tên Hiền Nguyệt Sắc; và có một thiên thần tên là Kết, con trai của Ma-đâu-lệ, người đánh xe, yêu người con gái kia. Bạch Đại Tiên Nhơn, vị ấy trong lúc đang yêu người con gái ấy, con cũng yêu người con gái ấy. Nhưng bạch Đại Tiên Nhơn, khi ấy, con muốn yêu người con gái ấy mà hoàn toàn không được. Bấy giờ, con đứng sau người con gái ấy mà ca tụng bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên quan đến Sa-môn, liên quan đến La-hán. Bạch Đại Tiên Nhơn, khi con ca tụng bài kệ này thì người con gái ấy quay lại nhìn, hân hoan nụ cười mà nói với con: “Ngũ Kết, tôi chưa được thấy Thế Tôn, nhưng tôi nghe từ các vị trời Tam Thập Tam nói rằng: ‘Đức Thế Tôn là bậc Như Lai, là bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu.’ Ngũ Kết, nếu ông đã từng nhiều lần ngợi khen Thế Tôn, vậy có thể cùng với tôi đồng thời kính bậc Đại Tiên Nhơn.” Con chỉ gặp gỡ nàng được một lần duy nhất, từ đó về sau không còn thấy lại.
Bấy giờ, Thiên vương Thích nghĩ rằng: “Ngũ Kết nhạc tử đã làm cho Thế Tôn ra khỏi thiền định, thông báo ta với Thiện Thệ.” Rồi Thiên vương Thích nói: – Ngũ Kết, ông hãy đến nơi ấy, thay mặt ta đảnh lễ sát chân Phật và thăm hỏi đức Thế Tôn rằng: “Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng?” Và nói như vầy: “Bạch Đại Tiên Nhơn, Thiên vương Thích và chư thiên ở Tam Thập Tam thiên muốn đến yết kiến Thế Tôn.” Ngũ Kết thưa:
- Xin vâng!
Khi đó, Ngũ Kết ôm đàn lưu ly chắp tay hướng về Phật bạch:
- Bạch Thế Tôn, kính Đại Tiên Nhơn, Thiên vương Thích xin đảnh lễ dưới chân Ngài, thăm hỏi Thế Tôn: “Thánh thể có được mạnh khỏe, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không? Bạch Đại Tiên Nhơn, Thiên vương Thích và chư thiên ở Tam Thập Tam thiên muốn đến yết kiến Thế Tôn.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
- Này Ngũ Kết, mong cho Thiên vương Thích được an ổn, khoái lạc; chư thiên, loài người, a-tu-la, kiền-đát-hòa, la-sát và tất cả các loài chúng sanh khác đều được an ổn, khoái lạc! Này Ngũ Kết, Thiên vương Thích có muốn đến yết kiến Ta thì hãy tùy ý!
Ngũ Kết nghe Phật dạy xong, khéo léo thọ trì, đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, trở về đến chỗ Thiên vương Thích thưa rằng:
- Tâu Thiên vương, tôi đã bạch với Thế Tôn. Thế Tôn nay đang đợi Thiên vương. Mong Thiên vương nên tự biết thời!
Bấy giờ, Thiên vương Thích cùng chư thiên Tam Thập Tam thiên và Ngũ Kết nhạc tử đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát chân Ngài, ba lần tự xưng tên họ rằng: – Bạch Đại Tiên Nhơn, con là Thiên vương Thích, con là Thiên vương Thích.
Đức Thế Tôn bảo:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Câu-dực, ông chính là Thiên vương Thích.
Thiên vương Thích ba lần tự xưng tên họ, đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên. Trời Tam Thập Tam và Ngũ Kết nhạc tử cũng đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên.
Khi ấy, Thiên vương Thích thưa:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, con nên ngồi cách xa hay gần Ngài?
Đức Thế Tôn dạy:
- Ông hãy ngồi gần Ta! Vì sao? Vì ông còn có hàng chư thiên quyến thuộc nữa.
Rồi Thiên vương Thích đảnh lễ chân Phật và ngồi sang một bên. Chư thiên Tam Thập Tam thiên và Ngũ Kết nhạc tử cũng đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên. Lúc ấy, động Nhân-đà-la bỗng nhiên rộng lớn. Vì sao? Vì nhờ oai thần của Phật và oai đức chư thiên vậy. Thiên vương Thích sau khi ngồi xuống, thưa rằng:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, đã từ lâu con muốn đến yết kiến Thế Tôn, muốn thưa hỏi về giáo pháp. Bạch Đại Tiên Nhơn, xưa kia một thời, đức Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, trong Thạch Nham. Bạch Đại Tiên Nhơn, lúc đó, con vì mình và chư thiên Tam Thập Tam thiên đi xe ngàn voi đến nhà của Đại vương Bệ-sa-môn. Bệ-sa-môn Đại vương có người thiếp tên Bàn-xà-na. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang nhập định, im lặng tịch nhiên. Người thiếp chắp tay đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn. Bạch Đại Tiên Nhơn, con nói với Bàn-xà-na rằng: “Này hiền muội, nay không phải lúc ta đến yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang nhập định. Nếu khi nào Thế Tôn xuất định, hiền muội hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thăm hỏi rằng: ‘Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bịnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không?’ Rồi nói như vầy: ‘Bạch Đại Tiên Nhơn, Thiên vương Thích đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi rằng: Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bịnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không?’” Bạch Đại Tiên Nhơn, cô em ấy có thay mặt con đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi Thế Tôn, Thế Tôn có nhớ chăng?
Đức Thế Tôn bảo:
- Này Câu-dực, cô em ấy có thay mặt ông đảnh lễ và cũng nói lại đầy đủ ý ông muốn thăm hỏi. Ta có nhớ việc ấy. Này Câu-dực, khi ông đi về, Ta nghe tiếng xe lăn và xuất định.
Bạch Thế Tôn, ngày xưa, con có nghe rằng khi đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở đời thì thiên chúng được hưng thạnh mà a-tu-la lại bị giảm thiểu. Bạch Đại Tiên Nhơn, chính mắt con trông thấy Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn theo Phật tu hành Phạm hạnh, xả dục, ly dục, khi thân hoại mạng chung được đến cõi lành, sanh lên trời. Bạch Đại Tiên Nhơn, Thích nữ Cù-tỳ là đệ tử của Thế Tôn, cũng theo Ngài tu tập Phạm hạnh, ghê tởm thân nữ, ái lạc thân nam, chuyển thân nữ thành thân nam, xả dục, ly dục, khi thân hoại mạng chung được sanh đến cõi Tam Thập Tam thiên làm con của con. Nàng đã thọ sanh rồi, chư thiên đều gọi là Cù-bà thiên tử, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Bạch Đại Tiên Nhơn, con lại thấy có ba vị Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn, cũng theo Thế Tôn tu tập Phạm hạnh nhưng không xả ly dục, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào trong cung kỹ nhạc thấp kém. Họ đã thọ sanh rồi, ngày ngày đến Tam Thập Tam thiên cung phụng chư thiên, hầu hạ Cù-bà thiên tử. Thiên tử thấy họ, liền nói bài kệ:
Pháp nhãn ưu-bà-di, |
Ta tên là Cù-tỳ, |
|
Phụng kính Phật và Pháp, |
Tịnh ý nhờ Tăng-già. |
|
Ta đã nhờ ân Phật, |
Thích tử nhiều phước đức, |
|
Diệu sanh Tam Thập Tam, |
Thiên tử, mọi người biết. |
|
Biết người vốn Tỳ-kheo, |
Thọ sanh thần kỹ nhạc, |
|
Chắp tay đứng trước mặt, |
Cù-bà nói kệ cho. |
|
Vốn con đức Cù-đàm, |
Khi ta ở nhân gian, |
|
Đã từng đến nhà ta, |
Ẩm thực hằng cúng dường. |
|
Người vốn cùng bậc Thánh, |
Hành vô thượng Phạm hạnh, |
|
Nay là để người sai, |
Thường nhật kính phụng trời. |
|
Xưa ta hầu hạ người, |
Cùng nghe pháp Như Lai, |
|
Được tín, thành tựu giới, |
Khéo sanh cõi trời này. |
|
Người vốn được thờ phụng, |
Hành vô thượng Phạm hạnh, |
|
Nay là để người sai, |
Thường nhật kính phụng trời. |
|
Mặt mày người là gì, |
Phật pháp đã thọ trì, |
|
Thánh nhãn đã dạy rõ, |
Pháp nội tâm chứng tri. |
|
Ta xưa hầu các vị, |
Nay nhạc thần liệt hạ, |
|
Tự theo phi pháp hành, |
Tự sanh phi pháp vậy. |
|
Ta sống đời tại gia, |
Nay xem thắng đức ta, |
|
Chuyển nữ thành thiên tử, |
Thọ ngũ dục tự do. |
|
Con Cù-bà bị mắng, |
Buồn nản, rồi tán thán: |
Ta nay hãy tiến hành, |
Thiên tử nói thật đúng. |
Hai trong số cần hành, |
Nhớ Pháp, Luật Cù-đàm, |
Biết dục là tai họa, |
Bèn xả ly dục tham. |
Chúng bị dục kết triền, |
Tức xả ly được liền, |
Như voi bức dây xích, |
Vượt Tam Thập Tam thiên. |
Nhân-đà-la, Thiên, Phạm, |
Tất cả đều đến nhóm, |
Vị ấy vượt bảo tòa, |
Hùng mãnh xả trần dục. |
Đế-thích thấy ưu phiền, |
Thắng thiên, thiên trong thiên, |
Chúng vốn sanh hạ tiện, |
Nay vượt Tam Tam thiên. |
Ưu phiền rồi tấm tắc, |
Cù-bà nói sau hết: |
Nhân gian Phật tối hậu, |
Đấng Mâu-ni thắng dục. |
Con ngài do lãng quên, |
Bị quở trách lại được, |
Một trong ba vị kia, |
Sanh trong loài kỹ nhạc; |
Cả hai thành chánh đạo, |
Tại trời Định Căn Lạc. |
Người nói pháp như vầy, |
Đệ tử không mê hoặc, |
Vượt lậu, đoạn tà nghi, |
Lễ Phật, thắng phục căn, |
Bởi vì rõ các pháp, |
Hai vị được thăng tiến. |
Từ chỗ thăng tiến ấy, |
Sanh lên trời Phạm thiên, |
Chúng con biết pháp ấy, |
Nên đến đây, Đại Tiên! |
Bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Vị quỷ này không bao giờ dua nịnh, dối trá, không huyễn hoặc, chất trực; nếu có hỏi, là muốn biết, chứ không phải muốn xúc nhiễu. Những điều vị này muốn hỏi cũng vậy. Ta hãy nói A-tỳ-đàm sâu sắc.” Đức Thế Tôn biết như thế, Ngài liền nói bài kệ cho Thiên vương Thích:
Vì an lạc đời này,
Và an lạc đời sau,
Câu-dực tùy ý hỏi,
Theo những điều sở thích,
Điều này hay điều kia,
Ta quyết đoán hết thảy.
Thế Tôn đã nghe cho,
Nhật thiên cầu đạo nghĩa,
Tại nước Ma-kiệt-đà,
Hiền Bà-sa-bà hỏi.
Bấy giờ, Thiên vương Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn, các loài trời, người, a-tu-la, kiền-đạt-hòa, la-sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi có bao nhiêu kiết sử?
Đức Thế Tôn nghe xong, đáp:
- Này Câu-dực, các loài trời, người, a-tu-la, kiền-đạt-hòa, la-sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kiết sử là bỏn xẻn và ganh tị. Mỗi chủng loại ấy đều nghĩ rằng: “Mong sao ta không gậy, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, sống trong an lạc.” Họ tuy nghĩ như vậy nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc.
Thiên vương Thích nghe thế, thưa rằng:
- Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Các loại trời, người, a-tu-la, kiền-đạt-hòa, lasát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kiết sử. Họ nghĩ rằng: “Mong sao ta không gậy, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, sống trong an lạc.” Họ tuy nghĩ như vậy nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, bỏn xẻn, ganh tị do nhân gì, duyên gì, từ đâu sanh ra, do đâu mà có; lại do nhân nào mà không có bỏn xẻn và ganh tị?
Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, bỏn xẻn và ganh tị nhân nơi ái lạc và không ái lạc, duyên nơi ái lạc và không ái lạc, từ nơi ái lạc và không ái lạc sanh ra, do ái lạc và không ái lạc mà có; nếu không có ái lạc và không ái lạc thì không có bỏn xẻn và ganh tị.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa rằng:
- Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Bỏn xẻn và ganh tị nhân nơi ái lạc và không ái lạc, duyên nơi ái lạc và không ái lạc, từ nơi ái lạc và không ái lạc sanh ra, do ái lạc và không ái lạc mà có; nếu không có ái lạc và không ái lạc thì không có bỏn xẻn và ganh tị. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không có do dự, do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, ái lạc và không ái lạc là do nhân gì, duyên gì, từ đâu phát sanh, do đâu mà có; lại do nhân nào mà không có ái lạc và không ái lạc?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, ái lạc và không ái lạc là nhân nơi dục và duyên nơi dục, từ nơi dục mà phát sanh, do dục mà có, nếu vô dục thì không có ái lạc và không ái lạc.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa rằng:
- Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Ái lạc và không ái lạc là nhân nơi dục và duyên nơi dục, từ nơi dục mà phát sanh, do dục mà có; nếu vô dục thì không có ái lạc và không ái lạc. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều của Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, dục là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có; do nhân nào không có dục?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, dục là nhân nơi suy niệm và duyên nơi suy niệm, từ nơi suy niệm mà phát sanh, do niệm mà có; nếu không có suy niệm thì không có dục.
Thiên vương Thích nghe thế, thưa rằng:
- Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Dục là nhân nơi suy niệm và duyên nơi suy niệm, từ nơi suy niệm mà phát sanh, do suy niệm mà có; nếu không có suy niệm thì không có dục. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, suy niệm là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có; lại do nhân nào không có suy niệm?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, suy niệm nhân nơi tư duy và duyên nơi tư duy, từ nơi tư duy mà phát sanh, do tư duy mà có; nếu không có tư duy thì không có suy niệm. Do suy niệm có dục, do dục có ái lạc và không ái lạc, do ái lạc và không ái lạc có bỏn xẻn và ganh tị; do bỏn xẻn và ganh tị mà sanh ra đao gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, hai lưỡi; trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là toàn khối lớn khổ đau này phát sanh. Nếu không có tư duy thì không có suy niệm, nếu không có suy niệm thì không có dục, nếu không có dục thì không có ái lạc và không ái lạc, nếu không có ái lạc và không ái lạc thì không có bỏn xẻn và ganh tị; nếu không có bỏn xẻn và ganh tị thì không có đao gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, hai lưỡi; trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa rằng:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Suy niệm là nhân nơi tư duy, duyên nơi tư duy, từ tư duy mà phát sanh, do tư duy mà có; nếu không có tư duy thì không có suy niệm. Do suy niệm nên có dục, do dục nên có ái lạc và không ái lạc, do ái lạc và không ái lạc nên có bỏn xẻn và ganh tị; do bỏn xẻn và ganh tị mà sanh ra đao gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, hai lưỡi; trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là toàn khối lớn khổ đau này phát sanh. Nếu không có tư duy thì không có suy niệm, nếu không có suy niệm thì không có dục, nếu không có dục thì không có ái lạc và không ái lạc, nếu không có ái lạc và không ái lạc thì không có bỏn xẻn và ganh tị; nếu không có bỏn xẻn và ganh tị thì không có đao gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, hai lưỡi; trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là toàn khối lớn đau khổ này bị tiêu diệt. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, thế nào là con đường tiêu diệt hý luận? Tỳ-kheo thực hành như thế nào để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, con đường tiêu diệt hý luận là tám chi Thánh đạo. Đó là chánh kiến, cho đến chánh định. Này Câu-dực, đó là con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ-kheo thực hành như vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận.
Thiên vương Thích nghe xong thưa rằng:
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Con đường tiêu diệt hý luận là tám chi Thánh đạo. Đó là chánh kiến, cho đến chánh định. Bạch Đại Tiên Nhơn, đó là con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ-kheo thực hành như vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã dạy, con đã rõ. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, một Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải đoạn bao nhiêu pháp và hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp. Thế nào là ba? Một là niệm, hai là ngôn, ba là mong cầu.
Này Câu-dực, niệm ấy, Ta nói có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu niệm mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu niệm mà nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu niệm kia vậy. Ngôn cũng như thế. Này Câu-dực, mong cầu, Ta nói cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu mong cầu mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu mong cầu mà nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu mong cầu kia vậy.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa:
- Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận đoạn ba pháp, tu hành ba pháp. Thế nào là ba? Một là niệm, hai là ngôn, ba là mong cầu. Đại Tiên Nhơn đã nói niệm có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu niệm tăng trưởng pháp ác, bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu niệm giảm tổn pháp ác, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí, để thành tựu niệm kia vậy. Ngôn cũng như vậy. Đại Tiên Nhơn đã nói mong cầu cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu mong cầu tăng trưởng pháp ác, bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu mong cầu giảm tổn pháp ác, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí, để thành tựu mong cầu kia vậy. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có bao nhiêu pháp để thủ hộ, giải thoát luật nghi, tu hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có sáu pháp để thủ hộ, giải thoát luật nghi và tu hành sáu pháp ấy. Sáu pháp ấy là gì? Đó là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp.
Này Câu-dực, mắt thấy sắc, Ta nói có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu mắt thấy sắc không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu mắt thấy sắc nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu mắt vậy. Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc và ý biết pháp, Ta nói cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu ý biết pháp không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu ý biết pháp nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý vậy.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có sáu pháp để thủ hộ, giải thoát luật nghi và tu hành sáu pháp. Sáu pháp ấy là gì? Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp. Đại Tiên Nhơn đã nói mắt thấy sắc có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu mắt thấy sắc mà tăng trưởng pháp ác, bất thiện và làm giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu mắt thấy sắc làm giảm tổn pháp ác, bất thiện và làm tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu mắt. Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp. Đại Tiên Nhơn đã nói ý biết pháp cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu ý biết pháp làm tăng trưởng pháp ác, bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu ý biết pháp làm giảm tổn pháp ác, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, vị Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, phải đoạn bao nhiêu pháp và tu hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn dạy:
- Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, lại cũng phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp. Ba pháp ấy là gì? Một là hỷ, hai là ưu và ba là xả. Này Câu-dực, hỷ, Ta nói có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu hỷ mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu hỷ nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ. Ưu cũng như thế. Này Câu-dực, xả, Ta nói cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu xả mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ; nếu xả nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu xả.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc phải đoạn trừ ba pháp và thực hành ba pháp. Ba pháp ấy là gì? Một là hỷ, hai là ưu và ba là xả. Đại Tiên Nhơn đã nói hỷ có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu hỷ làm tăng trưởng pháp ác, bất thiện và giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu hỷ làm giảm tổn pháp ác, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ. Ưu cũng thế. Đại Tiên Nhơn đã nói xả cũng có hai loại: Nên hành và không nên hành. Nếu xả làm tăng trưởng pháp ác, bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn liền đoạn trừ; nếu xả làm giảm tổn pháp ác, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhơn biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu xả. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đồng một thuyết, một mong cầu, một yêu thích, một hoan lạc, một ý hướng chăng?
Đức Phật dạy:
- Này Câu-dực, tất cả Sa-môn, Phạm chí không đồng một thuyết, một mong cầu, một yêu thích, một hoan lạc, một ý hướng.
Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, tất cả Sa-môn, Phạm chí vì lý do gì mà không đồng một thuyết, một mong cầu, một yêu thích, một hoan lạc, một ý hướng?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, thế giới này có nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi ở nơi giới đó, tùy khả năng, tùy phương tiện của mình mà nói một chiều rằng: “Đây là chân thật, ngoài ra đều hư dối.” Này Câu-dực, cho nên, tất cả Sa-môn, Phạm chí không đồng một thuyết, một mong cầu, một yêu thích, một hoan lạc, một ý hướng vậy.
Thiên vương Thích nghe xong, thưa:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Thế giới này có nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi ở nơi giới đó, tùy khả năng, tùy phương tiện của mình mà nói một chiều rằng: “Đây là chân thật, ngoài ra đều hư vọng.” Bạch Đại Tiên Nhơn, vì thế mà tất cả Sa-môn, Phạm chí không đồng một thuyết, một mong cầu, một yêu thích, một hoan lạc, một ý hướng vậy. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, thành tựu cứu cánh Phạm hạnh chăng?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, không hẳn là tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, thành tựu cứu cánh Phạm hạnh.
Thiên vương Thích thưa:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, vì lý do gì mà không hẳn là tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, thành tựu cứu cánh Phạm hạnh?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận, không toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát; kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh Phạm hạnh. Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận, toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát; kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, thành tựu cứu cánh Phạm hạnh.
Thiên vương Thích thưa:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận, không toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát; kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh Phạm hạnh. Bạch Đại Tiên Nhơn, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận, toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát; kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh Phạm hạnh, thành tựu cứu cánh Phạm hạnh. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhơn! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự do nghe những điều Phật dạy.
Thiên vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. Thiên vương Thích lại hỏi:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, con lâu nay bị gai nhọn nghi hoặc, ngày nay được Thế Tôn nhổ ra. Vì sao? Vì Như Lai là bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác vậy.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Câu-dực, ông nhớ lại ngày xưa, ông đã từng hỏi các Sa-môn, Phạm chí việc như thế chăng?
Thiên vương Thích đáp:
- Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhơn tự biết cho. Bạch Đại Tiên Nhơn, chư thiên Tam Thập Tam thiên tập hợp tại pháp đường, đều ôm lòng sầu não, thường than thở rằng: “Chúng ta nếu gặp được đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác thì quyết sẽ đến yết kiến.” Bạch Đại Tiên Nhơn, nhưng chúng con không gặp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, nhưng đã thụ hưởng đầy đủ các đặc tính của ngũ dục. Bạch Đại Tiên Nhơn, chúng con phóng dật. Sau khi sống phóng dật, vị thiên tử có đại oai đức ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung. Bạch Đại Tiên Nhơn, khi con thấy vị thiên tử có đại oai đức ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung, bèn chán nản hết sức, lông tóc đều dựng ngược: “Mong ta không ở nơi này mà mạng chung nhanh chóng!”
Bạch Đại Tiên Nhơn, con do sự chán nản này, sự ưu não này, nếu thấy Samôn, Phạm chí nào sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt, không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa; sau khi thấy vị ấy ưa thích nơi xa vắng, tĩnh tọa, sống an ổn, khoái lạc, con cho rằng đây là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, liền đến yết kiến. Vị ấy không biết con nên hỏi rằng: “Người là ai?” Lúc đó, con đáp rằng: “Bạch Đại Tiên Nhơn, con là Thiên vương Thích. Bạch Đại Tiên Nhơn, con là Thiên vương Thích.” Vị ấy lại hỏi: “Ta từng thấy Thiên vương Thích và cũng thấy chủng tánh Thích. Vì lý do gì gọi là Thích? Vì lý do gì gọi là chủng tánh Thích?” Con liền đáp: “Bạch Đại Tiên Nhơn, nếu có ai đến hỏi con việc như vậy, con liền tùy khả năng, tùy sức mà trả lời, cho nên được gọi là Thích.” Vị ấy lại nói: “Chúng ta tùy theo việc mà hỏi Thích,
Thích cũng tùy theo việc mà đáp lại ta.” Vị ấy hỏi việc con, nhưng con không hỏi việc vị ấy. Vị ấy quy mạng con, nhưng con không quy mạng vị ấy. Bạch Đại Tiên Nhơn, từ nơi Sa-môn, Phạm chí kia, hoàn toàn không được oai nghi giáo pháp, huống nữa lại được hỏi như vậy sao?
Lúc ấy, Thiên vương Thích nói bài tụng:
Thích đi qua, đi qua,
Thích nay nói như thế,
Lìa xa, ý sở niệm,
Trừ nghi, các do dự.
Từ lâu hành ở đời,
Tìm cầu đức Như Lai,
Thấy Sa-môn, Phạm chí,
Tĩnh tọa nơi xa vắng,
Cho là Chánh Đẳng Giác,
Đến phụng cúng, lạy thờ,
“Làm sao được thăng tấn?”
Như vậy, con hỏi Ngài.
Đã hỏi không được đáp,
Thành đạo và đạo tích.
Thế Tôn nay vì con,
Nếu ý có sở nghi,
Sở niệm và sở tư,
Và sở hành của ý,
Biết tâm ẩn và hiện,
Thánh nhãn nói cho hay.
Tôn Phật là Đạo sư,
Tôn Vô Trước Mâu-ni,
Tôn bậc đoạn kiết sử,
Độ mình và độ người.
Đệ nhất trong hàng giác ngộ,
Tối thượng ngự trong hàng điều ngự,
Tối diệu tịch trong hàng tịch tĩnh,
Đấng Đại Tiên, độ mình, độ người.
Nên con lễ Đại Hùng,
Cúi lạy Tối Thượng Nhân,
Đoạn tuyệt gai ái dục,
Kính lạy đấng Nhật Thân.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại hỏi rằng:
- Này Câu-dực, ông có nhớ ngày xưa, được xả ly như vậy, được hoan hỷ như vậy là do nơi Ta đã chứng đắc pháp hỷ chăng?
Thiên vương Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhơn tự biết cho. Bạch Đại Tiên Nhơn, một thời xưa, chư thiên và a-tu-la chiến đấu với nhau. Bạch Đại Tiên Nhơn, khi chư thiên và a-tu-la chiến đấu với nhau, con nghĩ rằng: “Mong chư thiên thắng, phá vỡ a-tu-la. Thực phẩm của chư thiên và thực phẩm a-tu-la hãy để tất cả cho Tam Thập Tam thiên thọ thực.” Bạch Đại Tiên Nhơn, khi chư thiên đánh nhau với a-tu-la, chư thiên đắc thắng, phá vỡ chúng a-tu-la. Thực phẩm của chư thiên và thực phẩm của a-tu-la, tất cả đều được chư thiên Tam Thập Tam thọ thực. Bạch Đại Tiên Nhơn, bấy giờ có ly, có hỷ, nhưng xen lẫn đao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, không được thần thông, không được giác đạo, không được Niết-bàn. Bạch Đại Tiên Nhơn, ngày nay được ly, được hỷ, không xen lẫn đao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, được thần thông, được giác đạo và được Niết-bàn.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Câu-dực, do đâu ông được ly, được hỷ? Do nơi Ta mà được pháp hỷ chăng?
Thiên vương Thích đáp:
- Bạch Đại Tiên Nhơn, con nghĩ rằng: “Ta mạng chung ở đây, sanh nơi nhân gian. Ở đó, nếu có dòng họ rất giàu sang, tiền của vô số, sản nghiệp, súc mục không thể tính được, phong hộ, thực ấp các thứ đầy đủ; hoặc là chủng tộc Sát-lợi trưởng giả, chủng tộc Phạm chí trưởng giả và các chủng tộc khác, rất là giàu sang, của cải vô số, sản nghiệp, súc mục không thể tính được, phong hộ, thực ấp các thứ đầy đủ. Sau khi sanh vào chủng tộc như thế, thành tựu các căn, có tín tâm đối với pháp, luật mà đức Như Lai giảng thuyết. Sau khi có tín tâm, liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo và học trí. Sau khi học trí, nếu thành đạt trí, liền chứng đắc Cứu cánh trí, đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu sau khi học trí mà không được Cứu cánh trí và sau khi học trí thì có chư thiên nào có đại phước hựu, có sắc tướng uy nghi, chói sáng rực rỡ, rất có oai lực, an ổn, khoái lạc, sống mãi trong cung, sanh nơi tối thượng; con sanh trong đó.”
Bấy giờ, Thiên vương Thích nói bài tụng:
Xả ly thân thiên thần,
Sanh xuống nơi nhân gian,
Thác thai không ngu muội,
Tùy sở thích hân hoan.
Thành thân đã toàn mãn,
Theo chánh đạo tu hành,
Hành Phạm hạnh trọn đủ,
Sống vui đời xin ăn.
Và sau khi học trí, nếu được trí, liền chứng đắc Cứu cánh trí, đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu học trí và sau khi học trí rồi mà được trí nhưng không chứng đắc Cứu cánh trí, sẽ thành vị trời tối thượng diệu, chư thiên đều nghe danh. Đó là Sắc Cứu Cánh thiên, con sẽ sanh vào đó. Bạch Đại Tiên Nhơn, con mong sẽ chứng đắc A-na-hàm. Bạch Đại Tiên Nhơn, con nay đã chứng đắc Tu-đà-hoàn.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Câu-dực, ông do đâu mà được cực hảo, cực cao, cực rộng, với một ít sai biệt, để có thể tự nói là đã chứng đắc Tu-đà-hoàn?
Bấy giờ, Thiên vương Thích dùng bài kệ đáp:
Không còn tôn ai khác, |
Ngoài cảnh giới Thế Tôn, |
Chứng vô thượng sai biệt, |
Cõi này thật chưa từng. |
Đại Tiên, con ngồi đây, |
Ngay với thân trời này, |
Con liền được tăng thọ, |
Chính mắt thấy như vầy. |
Khi nói pháp này, Thiên vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh. Tám vạn chư thiên cũng được xa lìa trần cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh. Khi ấy, Thiên vương Thích thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn tôn ai khác, không còn do ai khác, không còn do dự, đã an trú trên quả chứng, đối với giáo pháp của Phật, chứng đắc vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và thưa:
- Bạch Thế Tôn, con xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến khi mạng chung!
Bấy giờ, Thiên vương Thích ngợi khen Ngũ Kết nhạc tử rằng:
- Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, ông đã giúp ích cho ta rất nhiều. Vì sao? Do ông mà Phật xuất định, bởi ông trước hết khiến Thế Tôn từ định ra, khiến ta sau đó mới yết kiến được Thế Tôn. Này Ngũ Kết, sau khi từ đây trở về, ta đem Hiền Nguyệt Sắc, con gái của nhạc vương Đam-phù-lâu gả cho ông, và đem vương quốc của nhạc vương ấy trao cho ông, phong tặng ông làm vua kỹ nhạc.
Bấy giờ, Thiên vương Thích bảo chư thiên Tam Thập Tam thiên:
- Các ông hãy lại đây. Nếu trước kia chúng ta thường ba lần cung kính lễ sự Phạm thiên vương trên cõi trời Phạm thiên thì từ nay, tất cả đều cung kính lễ bái, hầu hạ Thế Tôn. Vì sao? Vì Thế Tôn là Phạm thiên; là vị Phạm thiên sẽ tạo hóa những bậc tối tôn; những chúng sanh đã sanh, những chúng sanh đã có và sẽ có; những gì Phạm thiên biết, Ngài đều biết hết; những gì Phạm thiên có thể thấy, Ngài đều thấy hết.
Rồi Thiên vương Thích, chư thiên cõi Tam Thập Tam thiên, Ngũ Kết nhạc tử, nếu trước kia từng ba lần cung kính lễ bái, hầu hạ Phạm thiên sống trên cõi Phạm thiên, nay họ thảy đều hướng sự cung kính lễ bái, hầu hạ ấy đến đức Thế Tôn, cúi đầu trước đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, Thiên vương Thích, chư thiên Tam Thập Tam thiên và Ngũ Kết nhạc tử, lại lần nữa cung kính lễ bái, hầu hạ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi bỗng nhiên biến mất khỏi chỗ đó, không thấy nữa.
Bấy giờ, Phạm thiên, với sắc tướng uy nghi, sáng chói rực rỡ, vào lúc trời gần sáng, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát chân Phật rồi đứng sang một bên, dùng kệ bạch Thế Tôn:
Do gây nhiều thiện ích,
Do lợi nghĩa là thiên,
Hiền giả ở Ma-kiệt,
Bà-sa-bà hỏi han.
Khi Đại Tiên Nhơn nói pháp này, Thiên vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh; và tám vạn chư thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Phạm thiên rằng:
- Quả như vậy! Quả như vậy! Đúng như Phạm thiên đã nói:
Do gây nhiều thiện ích,
Do lợi nghĩa là thiên,
Hiền giả ở Ma-kiệt,
Bà-sa-bà hỏi han.
Này Phạm thiên, khi Ta nói pháp, Thiên vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh; và tám vạn chư thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.
Đức Phật thuyết như vậy, Thiên vương Thích, chư thiên Tam Thập Tam thiên, Ngũ Kết nhạc tử và Đại Phạm thiên sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.