Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

130. KINH GIÁO ĐÀM-DI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Tôn giả Đàm-di, vị Tôn trưởng địa phương, làm chủ một tịnh xá, được mọi người tôn sùng, tánh tình hung bạo, nóng nảy, rất cộc cằn, thô lỗ, hay mắng nhiếc chê trách các vị Tỳ-kheo. Vì vậy, các vị Tỳ-kheo địa phương bỏ đi, không muốn ở đó nữa. Các ưu-bà-tắc địa phương thấy các vị Tỳ-kheo địa phương đều bỏ đi, không muốn ở đó nữa, liền nghĩ: “Các vị Tỳ-kheo địa phương này vì sao lại bỏ đi, không muốn sống ở đây nữa?” Rồi các vị ưu-bàtắc địa phương nghe được: “Tôn giả Đàm-di, vị Tôn trưởng địa phương, làm chủ một tịnh xá, được mọi người tôn sùng, tánh tình hung bạo, nóng nảy, rất cộc cằn, thô lỗ, hay mắng nhiếc, chê trách các vị Tỳ-kheo. Vì vậy, các vị Tỳkheo địa phương đều bỏ đi, không muốn sống ở đó nữa.” Các vị ưu-bà-tắc địa phương nghe việc ấy rồi liền cùng nhau kéo đến Tôn giả Đàm-di, xua đuổi ngài ra khỏi các tịnh xá địa phương. Bấy giờ, Tôn giả Đàm-di bị các ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi các tịnh xá địa phương, liền vấn y, mang bát du hành đến nước Xá-vệ, dần dà đến vườn Cấp Cô Độc, rừng Thắng Lâm, nước Xá-vệ. Rồi Tôn Giả Đàm-di đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi sang một bên và bạch:

- Bạch Thế Tôn, con đối với ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì xấu xa, chẳng nói việc gì, không xúc phạm đến ai; nhưng các ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi con ra khỏi các tịnh xá địa phương.

Khi đó, đức Thế Tôn bảo:

- Thôi đủ rồi, này Đàm-di, cần chi phải nói việc đó!

Tôn giả Đàm-di chắp tay hướng Phật, bạch lại một lần nữa:

- Bạch Thế Tôn, con đối với ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì xấu xa, chẳng nói việc gì, không xúc phạm đến ai; nhưng các ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi con ra khỏi các tịnh xá địa phương.

Đức Thế Tôn cũng lần thứ hai bảo:

- Thuở xưa, ở cõi Diêm-phù-đề này có các thương nhân đi thuyền ra biển, mang theo con ó tìm bờ. Những người ấy ra biển chưa bao xa, họ thả con ó tìm bờ. Nếu con ó tìm bờ đến được bờ của biển cả, nó sẽ vĩnh viễn không trở lại thuyền; nếu con ó tìm bờ không đến được bờ của biển cả nó sẽ trở lại thuyền.

Thầy cũng vậy, này Đàm-di; bởi vì thầy bị các ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi các tịnh xá địa phương nên thầy mới trở về chỗ Ta. Thôi đủ rồi, Đàm-di, cần gì phải nói điều đó nữa!

Tôn giả Đàm-di bạch lại lần thứ ba:

- Bạch Thế Tôn, con đối với ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì xấu xa, chẳng có việc gì, không xúc phạm đến ai; nhưng các ưu-bà-tắc xua đuổi con ra khỏi các tịnh xá địa phương.

Đức Thế Tôn cũng lại lần thứ ba bảo:

- Đàm-di, thầy trụ trong pháp Sa-môn mà bị ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi các tịnh xá địa phương sao?

Lúc đó, Tôn giả Đàm-di liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật và bạch:

- Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Sa-môn trụ trong pháp Sa-môn?

Đức Thế Tôn dạy:

- Này Đàm-di, thuở xưa, khi con người đến tám vạn tuổi. Đàm-di, khi con người đến tám vạn tuổi thì cõi Diêm-phù-đề này cực kỳ giàu sang, hạnh phúc, dân cư đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng khoảng một con gà bay. Khi con người sống đến tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. Này Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn tuổi, chỉ có các bệnh như vầy: Đại tiện, tiểu tiện, lòng dục, ăn uống và già. Đàm-di, khi con người sống tám vạn tuổi, có một vị vua tên là Cao-la-bà thông minh, trí tuệ, làm Chuyển Luân Vương, có bốn loại đạo binh, chỉnh trị thiên hạ, là Pháp vương thực hành theo Chánh pháp, thành tựu bảy báu; bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu; đó là bảy báu. Vua có một ngàn người con, tướng mạo đoan chánh, dũng mãnh vô úy, có thể khuất phục mọi người. Vua ấy thống lãnh tất cả cõi đất đai cho đến biển cả, không bằng đao gậy, mà chỉ bằng Chánh pháp mà cai trị giáo hóa khiến được an ổn.

Này Đàm-di, Vua Cao-la-bà có một cây tên là Thiện Trụ Ni-câu-loại vương. Đàm-di, Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương có năm cành: Cành thứ nhất dành cho vua và hoàng hậu ăn; cành thứ nhì dành cho thái tử và các quan ăn; cành thứ ba dành cho nhân dân trong nước ăn; cành thứ tư dành cho Sa-môn, Phạm chí ăn; cành thứ năm dành cho cầm thú ăn. Đàm-di, quả của cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương lớn bằng cái bình hai thăng, mùi vị như mật nguyên chất. Đàm-di, quả Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương không ai canh giữ mà cũng chẳng ai trộm về. Về sau, có một người đói khát, gầy còm, nhan sắc tiều tụy, muốn được ăn quả. Người ấy đến cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương ăn quả, rồi bẻ gãy cành cây, hái quả đem về. Trên cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương có một vị trời nương ở đó. Ông ấy nghĩ: “Lạ thay, người ở châu Diêm-phù-đề vô ân, không biết báo đáp. Vì sao? Vì nó ăn quả nơi cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương rồi bẻ gãy cành cây, hái quả đem về. Mong cho cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ  vương không có quả, không sanh quả nữa.” Tức thì cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương không có quả cũng không sanh quả. Rồi lại có người đói khát, gầy còm, nhan sắc tiều tụy, muốn được ăn quả, đi đến cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương, thấy cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương không có quả cũng không sanh quả, tức thì đến Vua Cao-la-bà tâu rằng:

“Tâu Thiên vương, nên biết, cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương không có quả, cũng không sanh quả.”

Vua Cao-la-bà nghe xong, trong khoảnh khắc như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến khỏi Câu-lâu-sấu, đến cõi Tam Thập Tam thiên, đứng trước thềm Đếthích và tâu rằng:

“Tâu Câu-dực, nên biết, cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương không có quả cũng không sanh quả nữa.”

Khi đó, Thiên Đế-thích và Vua Cao-la-bà trong khoảnh khắc, như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến khỏi cõi Tam Thập Tam thiên đến nước Câu-lâu-sấu, cách xa cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương đứng lại. Thiên Đế-thích thực hiện như ý túc như kỳ tượng, hóa làm nước lớn, gió bão và mưa to. Do nước lớn, gió bão, mưa to, cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương bị tróc gốc, ngã đổ. Lúc đó, có vị trời sống trên cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương nhân thấy như vậy mới buồn khổ, sầu thương, khóc lóc chảy nước mắt, đứng trước mặt Thiên Đế-thích. Thiên Đế-thích hỏi:

“Này Thiên thần, vì lẽ gì mà ông buồn khổ, sầu thương, khóc lóc rơi lệ, đứng trước mặt ta?” Vị trời kia thưa:

“Tâu Câu-dực, nên biết, nước lớn, gió bão, mưa to, cây Thiện Trụ Ni-câuloại thọ vương bị tróc gốc, ngã đổ.”

Khi ấy, Thiên Đế-thích bảo thọ thiên kia:

“Ông là thọ thiên trụ thọ thiên pháp mà để nước lớn, gió mạnh, mưa to làm cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương bị tróc gốc, ngã đổ sao?” Thọ thiên thưa:

“Tâu Câu-dực, thế nào gọi là thọ pháp thiên trụ thọ thiên?” Thiên Đế-thích bảo:

“Giả sử có người muốn được gốc cây, đem gốc cây đi, muốn được cành cây, nhánh cây, lá cây, hoa quả cứ đem đi. Thọ thiên không nên giận dữ, không nên ghen ghét, tâm không nên thù hận. Thọ thiên vẫn an trú trên thọ thiên với ý niệm buông xả. Như vậy gọi là thọ pháp thiện trụ thọ thiên.

Vị trời kia lại tâu:

“Tâu Câu-dực, tôi là thọ thiên mà không trụ thọ thiên pháp. Từ nay về sau tôi sẽ trụ thọ thiên pháp. Ước mong cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương trở lại như cũ!”

Rồi Thiên Đế-thích thực hiện như ý túc như kỳ tượng; thực hiện như ý túc như kỳ tượng xong, lại hóa làm nước lớn, gió bão, mưa to. Thiên Đế-thích hóa làm nước lớn, gió bão, mưa to xong, cây Thiện Trụ Ni-câu-loại thọ vương liền trở lại như cũ.

Này Đàm-di, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo bị người mắng nhiếc, không mắng nhiếc lại; bị người sân giận, không sân giận lại; bị người quấy phá, không quấy phá lại; bị người đánh, không đánh lại. Này Đàm-di, như vậy gọi là Sa-môn trụ pháp Sa-môn.

Lúc đó, Tôn giả Đàm-di liền rời chỗ ngồi, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng Phật, khóc lóc rơi lệ và bạch:

- Bạch Thế Tôn, con không phải là Sa-môn trụ pháp Sa-môn. Từ nay về sau, con mới là Sa-môn trụ pháp Sa-môn.

Đức Thế Tôn dạy:

- Xưa có một Đại sư tên là Thiện Nhãn, được các ngoại đạo tiên nhơn tôn làm Tôn sư, lìa bỏ ái dục, được như ý túc. Này Đàm-di, Đại sư Thiện Nhãn có vô lượng trăm ngàn đệ tử. Đàm-di, Đại sư Thiện Nhãn nói pháp Phạm thế cho các đệ tử nghe. Đàm-di, khi Đại sư Thiện Nhãn nói pháp Phạm thế cho các đệ tử, trong các đệ tử có người không phụng hành trọn vẹn thì người ấy, sau khi mạng chung, hoặc sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, hoặc sanh lên cõi trời Tam Thập Tam thiên, hoặc sanh lên cõi trời Diệm-ma, hoặc sanh lên cõi trời Đâu-suất-đà, hoặc sanh lên cõi trời Hóa Lạc, hoặc sanh lên cõi trời Tha Hóa Lạc. Này Đàm-di, khi Đại sư Thiện Nhãn nói Phạm thế pháp cho đệ tử nghe, trong các đệ tử, có người phụng hành trọn vẹn, người ấy tu bốn Phạm thất, lìa bỏ dục, khi mạng chung rồi, được sanh lên cõi trời Phạm thiên. Đàm-di, khi ấy Đại sư Thiện Nhãn nghĩ rằng: “Đời sau, ta không nên cùng các đệ tử đồng sanh đến một chỗ; bây giờ, ta hãy tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng thượng từ, mạng chung sẽ được sanh vào cõi trời Hoảng Dục.” Đàm-di, sau đó Đại sư Thiện Nhãn liền tu tăng thượng từ, sau khi tu tăng thượng từ, mạng chung được sanh vào cõi trời Hoảng Dục. Đàm-di, Đại sư Thiện Nhãn và các đệ tử học đạo không luống công, được quả báo lớn. Cũng như Đại sư Thiện Nhãn, có các Đại sư Mâu-lê-phá-quần-na, A-la-na-giá Bà-la-môn, Cù-đà-lê-xá-đa, Hạt-đềbà-la-ma-nạp, Thù-đề-ma-lệ-kiều-bệ-đà-la và Tát-đa-phú-lậu-hề-đa. Đàm-di, Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa cũng có vô lượng trăm ngàn đệ tử. Đàm-di, Vị Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa nói pháp Phạm thế cho các đệ tử. Nếu khi Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa nói pháp Phạm thế cho đệ tử, trong số các đệ tử, có người không phụng hành trọn vẹn pháp đã dạy, người ấy sau khi mạng chung, hoặc sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, hoặc sanh lên cõi trời Tam Thập Tam thiên, hoặc sanh lên cõi trời Diệm-ma, hoặc sanh lên cõi trời Đâu-suất-đà, hoặc sanh lên cõi trời Hóa Lạc, hoặc sanh lên cõi trời Tha Hóa Lạc. Vị Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa khi nói pháp Phạm thế, trong số các đệ tử có người phụng hành trọn vẹn pháp ấy, tu bốn Phạm thất, lìa bỏ dục ái, người ấy sau khi mạng chung, được sanh vào cõi trời Phạm thiên. Đàm-di, vị Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa nghĩ: “Đời sau, ta không nên cùng các đệ tử sanh vào một chỗ; bây giờ, ta nên tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng thường từ, mạng chung sẽ được sanh vào cõi trời Hoảng Dục.” Đàm-di, sau đó vị Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa tu tăng thượng từ, sau khi tu tăng thượng từ rồi, mạng chung được sanh lên cõi trời Hoảng Dục. Đàm-di, vị Đại sư Thất-phú-lâu-hề-đa và các đệ tử học đạo không hư dối, được quả báo lớn. Đàm-di, nếu có người nào mắng nhiếc bảy vị Đại sư và vô lượng trăm ngàn đệ tử kia, đánh phá, sân nhuế, trách móc họ, chắc chắn chịu vô lượng tội. Nhưng đối với một Tỳ-kheo đệ tử Phật đã thành tựu chánh kiến, chứng đắc tiểu quả, mà có ai mắng nhiếc, đả phá, sân nhuế, trách móc vị ấy thì mắc tội nhiều hơn thế nữa. Thế nên, này Đàm-di, các thầy hãy luôn luôn nhắc nhở thủ hộ lẫn nhau. Vì sao như vậy? Vì ngoài tội này, không còn tội nào hơn nữa.

Khi ấy, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Tu-niết, Mâu-lê-phá-quần-na, A-la-na-dà Bà-la-môn,

           Cù-đà-lê-xa-da,

Hại-đề-bà-la-ma-nạp,

           Thù-đề-ma-lệ-kiều-bệ-bà-la,

Tát-đa-phú-lâu-hề-đa:

           Trong đời quá khứ ấy,

Danh đức bảy Tôn sư,

           Bi tâm, không nhiễm ái,

Dục kiết đã dứt trừ.

           Trăm ngàn số đệ tử,

Vô lượng đếm sao vừa,

           Cũng đều ly dục kiết,

Dù cứu cánh còn chưa.

           Với các tiên nhơn ấy,

Thủ trì khổ hạnh này,

           Ai ôm lòng oán hận,

Tội mắng nhiếc nhiều thay!

           Huống chi với Phật tử, 

Quả thấy tri kiến ngay,

           Ai chửi mắng, đập phá,

Tội nghiệp lại tràn đầy.

           Này Đàm-di, do đó,

Hãy biết thủ hộ nhau,

           Thủ trì lẫn nhau vậy,

Tội nặng nào hơn đâu.

           Như thế thật quá khổ,

Bậc Thánh cũng ghét bỏ,

           Màu da lại xấu xí,

Chớ thủ tà kiến xứ,

           Đó là hạng thấp hèn,

Thánh pháp gọi như thế.

           Dù chưa lìa dâm dục,

Có diệu ngũ căn này:

           Tín, tinh tấn, niệm xứ,

Chánh định, chánh quán đây,

           Khổ kia mình chịu vậy,

Trước phải thọ họa tai,

           Họa tai đã tự thọ,

Sau nữa gây hại người.

           Ai hay tự thủ hộ,

Tất thủ hộ bên ngoài,

           Cho nên hãy tự hộ,

Kẻ trí, hoan lạc thay!

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Đàm-di và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.