Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

125. KINH BẦN CÙNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo:

- Ở đời, người có tham dục mà lại bần cùng phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu người có tham dục lại bần cùng mà vay nợ, tài vật của người khác; ở đời, người vay nợ, tài vật của người khác phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu người có tham dục mà vay nợ, tài vật của người khác không trả đúng hẹn được, cứ hẹn rày hẹn mai; ở đời, cứ khất nợ mãi phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu người có tham dục cứ khất nợ mãi, không trả được, chủ nợ đến đòi; ở đời, bị chủ nợ đòi phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu chủ nợ đến đòi mà người có tham dục kia không thể trả được, chủ nợ cứ đến đòi nợ mãi; ở đời, bị chủ nợ đòi mãi, phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu chủ nợ cứ đòi mãi nhưng kẻ có tham dục kia vẫn không trả được, liền bị chủ nợ bắt trói lại; ở đời, bị chủ nợ bắt trói lại phải chăng là đại khổ?

Các thầy Tỳ-kheo đáp:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

- Vậy thì, ở đời người có tham dục lại bần cùng là đại khổ; ở đời người có tham dục vay nợ, tài vật của người khác là đại khổ; ở đời người có tham dục vay nợ, tài vật của người khác mà khất mãi là đại khổ; ở đời người có tham dục bị chủ nợ đòi nợ là đại khổ; ở đời người có tham dục bị chủ nợ đòi mãi là đại khổ; ở đời người có tham dục bị chủ nợ bắt trói lại là đại khổ.

Cũng vậy, nếu ai đối với Thánh pháp mà không tin ở thiện pháp, không giữ cấm giới, không nghe nhiều, không bố thí, không trí tuệ, đối với thiện pháp; dù có nhiều kim ngân, lưu ly, pha lê, ma-ni, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đại môi, xà cừ, bích ngọc, xích thạch, tuyền châu, nhưng người ấy vẫn là kẻ nghèo, cũng cô thế. Như vậy, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự bần cùng, bất thiện.

Kẻ ấy thân làm việc ác, miệng nói ác và ý nghĩ ác. Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự vay nợ bất thiện.

Kẻ ấy muốn che giấu việc làm ác của thân, không tự tỏ bày, không muốn nói ra, không thích bị quở trách, không ưa theo điều phải; muốn che giấu lời nói ác, ý nghĩ ác, không tự tỏ bày, không muốn nói ra, không thích bị khiển trách, không ưa theo điều phải. Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự khất nợ bất thiện.

Kẻ ấy hoặc sống trong thôn ấp hay ở ngoài thôn ấp, các người Phạm hạnh thấy được bèn nói như thế này: “Này chư Hiền, người này làm như thế, hành vi như thế, ác như thế, bất tịnh như thế, đó là cái gai của thôn ấp.” Kẻ ấy liền bào chữa: “Này chư Hiền, tôi không làm như vậy, không có hành vi như vậy, không ác như vậy, không bất tịnh như vậy, cũng không phải là cái gai của thôn ấp.” Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự đòi nợ bất thiện.

Kẻ ấy hoặc ở rừng vắng, hoặc ở núi non, dưới gốc cây, hoặc ở chỗ thanh vắng nhưng vẫn niệm tưởng ba việc bất thiện: Dục, nhuế, hại. Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự không ngớt đòi nợ bất thiện.

Kẻ ấy thân đã làm việc ác, miệng đã nói lời ác và ý đã nghĩ điều ác. Do đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung, nhất định sanh vào chỗ ác, sanh trong địa ngục. Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự trói buộc của bất thiện.

Ta không thấy có sự trói buộc nào đau khổ bằng, nặng nề bằng, tàn khốc bằng, khó yêu nỗi bằng sự trói buộc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba sự trói buộc đau khổ này chỉ có bậc Tỳ-kheo A-la-hán lậu tận mới biến tri và diệt tận, nhổ phăng cội rễ, vĩnh viễn không còn tái sanh.

Rồi đức Thế Tôn nói tụng:

 

           Kẻ nghèo khổ ở đời,

Vay nợ của người khác,

           Đã vay tiền của rồi,

Mắc nợ người là khổ.

           Chủ nợ đến đòi nợ,

Nhân đấy bắt trói lại,

           Bị trói thật khổ thay,

Thế gian vẫn lạc dục.

           Trong Thánh pháp cũng vậy,

Nếu không có chánh tín,

           Không tàm và không quý,

Làm hạnh ác, bất thiện.

           Thân làm điều bất thiện,

Miệng ý chẳng kém gì,

           Che giấu không nói ra,

Không ưa lời dạy phải.

           Giả sử có tu hành,

Tâm niệm cho là khổ,

           Hoặc thôn hay chỗ vắng,

Nhân đó sanh hối hận.

           Các việc thân, miệng gây,

Và những điều ý nghĩ,

           Ác nghiệp cứ tăng dần,

Quen làm lại làm nữa.

           Tạo ác mãi không thôi,

Làm nhiều bất thiện rồi,

           Thọ sanh đến lúc hết,

Tất bị trói địa ngục.

           Buộc ràng này quá khổ,

Bậc Đại Hùng đã thoát,

           Đúng pháp, thu tiền tài,

Không nợ nần, an ổn.

           Thí dụ được hoan hỷ,

Cả hai đều có lợi,

           Các cư sĩ theo đây,

Do thí, phước tăng mãi.

           Trong Thánh pháp cũng vậy,

Nếu có thành tín vững,

           Đầy đủ đức tàm, quý,

Rộng rãi không keo kiệt.

           Dứt lìa năm triền cái,

Thường ưa hành tinh tấn,

           Thành tựu các thiền định,

Chuyên nhất tâm tĩnh lạc.

           Niềm vui không tài sản,

Cũng như nước tắm trong,

           Bất động tâm giải thoát,

Trừ sạch các hữu kiết.

           Không bệnh là Niết-bàn,

Đó là đèn vô thượng,

           Vô ưu, vô nhiễm lạc,

Gọi là không di động.

Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.