Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

116. KINH CÙ-ĐÀM-DI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa Thích-cơ-sấu, tại Ca-duy-la-vệ, vườn Ni-câu-loại cùng với đại chúng Tỳ-kheo cùng thọ hạ an cư.

Bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên và bạch:

- Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả Sa-môn thứ tư được chăng? Do nhân duyên này, nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?

Đức Thế Tôn dạy:

- Thôi, thôi, Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng: “Nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.” Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ tóc, khoác áo cà-sa, nguyện suốt đời tịnh tu Phạm hạnh.

Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bị Phật ngăn cản, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo khâu vá y của đức Phật. Đức Thế Tôn ở Thích-cơ-sấu không bao lâu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong và đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y, ôm bát, sửa soạn du hành nhân gian.

Cù-đàm-di Đại Ái Đạo nghe tin các Tỳ-kheo khâu vá y của đức Phật. Đức Thế Tôn ở Thích-cơ-sấu không bao lâu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong và đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y, ôm bát, sửa soạn du hành nhân gian. Sau khi nghe tin, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo lại đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi một bên và bạch:

- Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên này, nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?

Đức Thế Tôn lại nói:

- Thôi, thôi, Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng: “Nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.” Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ tóc, khoác áo cà-sa, nguyện suốt đời tịnh tu Phạm hạnh.

Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bị Phật ngăn cản lần thứ hai, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở Thích-cơ-sấu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong, đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian.

Cù-đàm-di Đại Ái Đạo nghe tin đức Thế Tôn ở Thích-cơ-sấu sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong, đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y, ôm bát mà du hành nhân gian. Cù-đàm-di Đại Ái Đạo liền cùng các lão mẫu Xá-di đi theo sau Phật, tiến dần đến Na-ma-đề, trú tại tinh xá Na-ma-đề-kiền-ni. Khi ấy, Cùđàm-di Đại Ái Đạo lại đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi một bên và bạch:

- Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên này, nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?

Đức Thế Tôn nói lại lần thứ ba:

- Thôi, thôi, Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng: “Nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.” Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ tóc, khoác áo cà-sa, nguyện suốt đời tịnh tu Phạm hạnh.

Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bị đức Thế Tôn ngăn cản lần thứ ba, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.

Lúc bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo chân tay lấm bùn, thân thể dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa, buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A-nan trông thấy Cù-đàm-di Đại Ái Đạo chân tay lấm bùn, thân thể dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa, buồn rầu khóc lóc, liền hỏi:

- Cù-đàm-di, lý do gì chân tay lấm bùn, thân thể dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa, buồn rầu khóc lóc như vậy?

Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đáp:

- Thưa Tôn giả A-nan, nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.

Tôn giả A-nan nói:

- Cù-đàm-di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến đức Phật thưa việc này cho!

Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đáp:

- Kính vâng, thưa Tôn giả A-nan!

Rồi Tôn giả A-nan đi đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay hướng về Phật và bạch:

- Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên này, nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?

Đức Thế Tôn dạy:

Thôi, thôi, này A-nan, thầy chớ nên nghĩ rằng: “Nữ nhân có thể ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.” A-nan, nếu cho nữ nhân được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì Phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. A-nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có được hưng thạnh lên không?

- Bạch Thế Tôn, không thể!

- Cũng vậy, này A-nan, nếu cho nữ nhân được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì Phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. A-nan, ví như trong ruộng lúa tẻ, ruộng lúa tẻ có sanh uế tạp thì ruộng lúa kia chắc chắn bị hư hại. Cũng vậy, này A-nan, nếu cho nữ nhân được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình mà học đạo thì Phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn-giả A-nan lại bạch:

- Bạch Thế Tôn, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đã đem lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích. Vì sao? Vì sau khi thân mẫu Thế Tôn mất, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đã bảo dưỡng đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn dạy:

- Đúng vậy, A-nan! Đúng vậy, A-nan! Cù-đàm-di Đại Ái Đạo đã đem lại cho Ta nhiều lợi ích, đã bảo dưỡng Ta sau khi mẫu thân Ta mất. Nhưng này A-nan, Ta cũng đem lại cho Cù-đàm-di Đại Ái Đạo nhiều lợi ích. Vì sao? Này A-nan, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo nhờ Ta mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo-tăng, không nghi ngờ Tam bảo và khổ tập diệt đạo, thành tựu tín tâm, phụng trì giới cấm, tu học, bác văn, thành tựu hạnh bố thí, được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn trừ nghiệp không cho mà lấy, xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm, xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối, xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu. Này A-nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo-tăng, không nghi ngờ Tam bảo và khổ tập diệt đạo, thành tựu tín tâm, giữ gìn giới cấm, tu học, bác văn, thành tựu bố thí, được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn trừ nghiệp không cho mà lấy, xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm, xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối, xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu; thì này A-nan, giả như người này cúng dường cho người kia y phục, ăn uống, tọa cụ thuốc thang, các vật dụng cho cuộc sống cho đến trọn đời, chẳng lẽ nào lại không được đền ơn?

Này A-nan, nay Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp, nữ nhân không được phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. Này A-nan, ví như người đánh cá và những đệ tử của người đánh cá đắp đập ở khoảng nước sâu để giữ nước, không cho chảy ra ngoài; cũng vậy, này A-nan, nay Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp, nữ nhân không được phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Tám pháp đó là những gì?

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ túc nơi Tỳ-kheo. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ nhất, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ hai, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni không được thọ hạ an cư. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ ba, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng, thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự: Thấy, nghe và nghi. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ tư, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheoni không được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh, Luật hoặc A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì Tỳ-kheo-ni mới được thưa hỏi về Kinh, Luật hoặc A-tỳ-đàm. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ năm, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ sáu, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ bảy, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Tỳ-kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối với Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung, cúi đầu làm lễ, cung kính, chắp tay thưa hỏi. Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ tám, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp này, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. Này A-nan, nếu Cùđàm-di Đại Ái Đạo phụng trì tám kỉnh pháp này thì được ở trong Pháp, Luật chân chánh này mà xuất gia học đạo, được thọ giới Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni.

Khi ấy, Tôn giả A-nan nghe đức Phật dạy, khéo nhận lãnh và ghi nhớ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, đi đến chỗ Cù-đàm-di Đại Ái Đạo và nói:

– Cù-đàm-di, nữ nhân đã được phép ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, xuất gia học đạo. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời tám kỉnh pháp này.

Tám kỉnh pháp đó là gì?

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ Cụ túc giới nơi Tỳ-kheo. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ nhất, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giới nơi Tỳ-kheo. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ hai, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni không được thọ hạ an cư. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ ba, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư xong phải đối trước hai bộ chúng, thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự: Thấy, nghe và nghi. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ tư, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheoni không được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh, Luật hay A-tỳ-đàm. Nếu Tỳ-kheo cho phép hỏi thì Tỳ-kheo-ni mới được thưa hỏi về Kinh, Luật hoặc A-tỳ-đàm. Cùđàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ năm, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ sáu, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ bảy, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung, cúi đầu làm lễ, cung kính, chắp tay thưa hỏi. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố kỉnh pháp thứ tám, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Cù-đàm-di, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp này, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. Cù-đàm-di, đức Thế Tôn dạy như vầy: “Nếu Cù-đàm-di Đại Ái Đạo phụng trì tám kỉnh pháp này thì được ở trong Pháp, Luật chân chánh này xuất gia học đạo, được thọ giới

Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni.”

Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo thưa:

- Thưa Tôn giả A-nan, cho phép tôi nói ví dụ này. Người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ nghĩa lý. Thưa Tôn giả A-nan, giả sử có thiếu nữ Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ hay công sư đoan chánh đẹp đẽ, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa khắp thân, mặc y phục mới, dung mạo trang sức bằng đủ thứ anh lạc, nếu có người nghĩ tưởng đến thiếu nữ ấy, mong muốn cho được lợi ích và phước lành, được an ổn, khoái lạc liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa chiêm-bặc, tràng hoa tu-ma-na, tràng hoa bà-sư, hoặc tràng hoa a-đề-mưu-đa trao tặng thiếu nữ ấy. Thiếu nữ ấy vui mừng, hai tay nhận lãnh, đem cài lên đầu mình; cũng vậy, thưa Tôn giả A-nan, đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố tám kỉnh pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và phụng trì.

Bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo ở trong Pháp, Luật chân chánh xuất gia học đạo, được thọ Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni. Về sau, Cù-đàm-di Đại Ái Đạo trở thành Đại Tỳ-kheo-ni, cùng với các Trưởng lão Thượng tôn Tỳ-kheo-ni là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu hành Phạm hạnh đã lâu, cùng đi đến chỗ Tôn giả A-nan, cúi đầu làm lễ rồi đứng một bên thưa:

- Thưa Tôn giả A-nan, nên biết, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão Thượng tôn này là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu hành Phạm hạnh đã lâu. Còn các Tỳ-kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo, xuất gia sau, vào nơi Pháp, Luật chân chánh này chưa được bao lâu. Mong rằng các Tỳ-kheo ấy đối với các Tỳ-kheoni nên tùy theo lớn nhỏ mà cúi đầu làm lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi.

Khi ấy, Tôn giả A-nan nói:

 Cù-đàm-di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến đức Phật thưa hỏi việc này!

Cù-đàm-di Đại Ái Đạo thưa:

- Kính vâng, thưa Tôn giả A-nan!

Rồi Tôn giả A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng một bên chắp tay hướng về Phật và bạch:

- Bạch Thế Tôn, hôm nay Cù-đàm-di Đại Ái Đạo cùng các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão Thượng tôn là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu hành Phạm hạnh đã lâu, cùng đi đến chỗ của con, cúi đầu làm lễ sát chân con, rồi đứng qua một bên, chắp tay và nói với con rằng: “Thưa Tôn giả A-nan, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão Thượng tôn này là những vị danh tiếng trong hàng ngũ vương giả, tu hành Phạm hạnh đã lâu. Còn các thầy Tỳ-kheo nhỏ kia còn nhỏ tuổi, mới học đạo, xuất gia sau, vào nơi Pháp, Luật chân chánh này chưa được bao lâu. Mong rằng các Tỳ-kheo ấy đối với Tỳ-kheo-ni nên tùy theo lớn nhỏ mà cúi đầu làm lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi.” Đức Thế Tôn nói:

- Thôi, thôi, này A-nan, hãy gìn giữ lời nói này, hãy thận trọng, chớ có nói điều đó! Này A-nan, như thầy đã biết và như Ta đã biết thì một lời cũng không nên nói, huống nữa là đã nói như vậy.

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo thì các Phạm chí, cư sĩ sẽ lấy áo trải lên đất và nói rằng: “Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi được lợi ích, phước lành, an ổn, khoái lạc lâu dài!”

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì các Phạm chí, cư sĩ sẽ đem đầu tóc mình trải lên đất và nói rằng: “Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi được lợi ích, phước lành, được an ổn, khoái lạc lâu dài!”

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì các Phạm chí, cư sĩ nếu trông thấy Sa-môn, hai tay sẽ bưng các thức ăn ra đứng bên đường chờ đợi và nói rằng: “Thưa Tôn giả, xin thọ nhận món ăn này, có thể mang đi tùy ý thọ dụng, để cho chúng tôi được lợi ích, phước lành, được an ổn, khoái lạc lâu dài!”

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì các Phạm chí, cư sĩ nếu trông thấy Sa-môn tinh tấn liền sanh tâm kính mến, dìu đỡ vào nhà, đem các tài vật ra cúng dường Sa-môn tinh tấn và nói rằng: “Thưa Tôn giả, xin thọ nhận tài vật này, có thể mang đi tùy ý thọ dụng để cho chúng tôi được lợi ích, phước lành, được an ổn, khoái lạc lâu dài!”

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng đối trước sức oai thần của vị Sa-môn tinh tấn vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với hàng dị đạo dở chết ấy.

Này A-nan, nếu nữ nhân không được ở trong Pháp, Luật chân chánh này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì Chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng giờ đây đã mất hết năm trăm năm, chỉ còn lại có năm trăm năm.

Này A-nan, có năm việc nữ nhân không làm được. Nếu nói rằng nữ nhân được thành Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển Luân Vương, Thiên Đế-thích, Ma vương hay Đại Phạm thiên thì điều này nhất định không thể có. Nhưng có năm việc nam nhân làm được. Nếu nói rằng nam nhân được thành Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển Luân Vương, Thiên Đế-thích, Ma vương hay Đại Phạm thiên thì điều này chắc chắn có thật.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.