Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

115. KINH MẬT HOÀN DỤ

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa Thích-kỳ-sấu, ở tại Ca-duy-la-vệ.
Bấy giờ, sau khi đêm tối đã qua, vào buổi sáng sớm, đức Thế Tôn đắp y, ôm bát vào Ca-duy-la-vệ khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài cất y bát, rửa tay chân, lấy ni-sư-đàn vắt lên vai, đến tinh xá của họ Thích-ca trong rừng trúc, rồi Ngài đi đến dưới một gốc cây trong rừng Đại Lâm, trải ni-sư-đàn và ngồi kiết-già. Khi ấy, Chấp Trượng Thích chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa, ung dung tìm đến chỗ Phật, cùng nhau chào hỏi, chống gậy đứng trước đức Phật, rồi hỏi đức Thế Tôn:
– Sa-môn Cù-đàm, Ngài lấy gì làm tông chỉ và thuyết giảng những pháp gì?
Đức Thế Tôn đáp:
– Này người họ Thích, nếu tất cả chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời trên thế gian này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, Phạm hạnh thanh tịnh, lìa bỏ dua nịnh quanh co, dứt trừ trạo hối, không đắm trước hữu và phi hữu, cũng không có tưởng; đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta thuyết giảng cũng như vậy.
Khi ấy, Chấp Trượng Thích nghe đức Phật nói, không cho là phải, không cho là trái. Chấp Trượng Thích lắc đầu rồi bỏ đi.
Bấy giờ, sau khi Chấp Trượng Thích bỏ đi không lâu, vào lúc xế trưa, đức Thế Tôn từ chỗ thiền tọa đứng dậy đi vào giảng đường, đến trước hội chúng Tỳ-kheo trải tọa cụ và ngồi xuống, rồi nói với các Tỳ-kheo:
– Hôm nay, vào buổi sáng sớm, Ta đắp y, ôm bát vào Ca-duy-la-vệ khất thực. Sau khi ăn xong, Ta cất y bát, rửa tay chân, lấy ni-sư-đàn vắt lên vai, đến tinh xá của họ Thích-ca trong rừng trúc, rồi Ta đi vào Đại Lâm ấy, đến dưới một gốc cây, trải ni-sư-đàn rồi ngồi kiết-già. Khi ấy, có Chấp Trượng Thích chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa ung dung tìm đến chỗ Ta, cùng nhau chào hỏi, chống gậy đứng trước mặt Ta rồi hỏi Ta rằng:
“Sa-môn Cù-đàm, Ngài lấy gì làm tông chỉ và thuyết giảng những pháp gì?”
Ta đáp:
“Này người họ Thích, nếu tất cả Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời trên thế gian này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, Phạm hạnh thanh tịnh, lìa bỏ dua nịnh quanh co, dứt trừ trạo hối, không đắm trước hữu và phi hữu, cũng không có tưởng; đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta thuyết giảng cũng như vậy.”
Khi ấy, Chấp Trượng Thích nghe Ta nói rồi, không cho là phải, cũng không cho là trái. Chấp Trượng Thích lắc đầu rồi bỏ đi.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai, chắp tay hướng Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, sao gọi là tất cả Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời trên thế gian này đều không đấu tranh? Sao gọi là tu tập ly dục, được Phạm hạnh thanh tịnh? Sao gọi là lìa bỏ dua nịnh quanh co, dứt trừ trạo hối, không đắm trước hữu và phi hữu, cũng không có tưởng?
Đức Thế Tôn dạy:
– Tỳ-kheo, nếu người do suy niệm mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối trước pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng tập, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác đều dứt tận; đó gọi là dứt tận sự khổ.
Đức Phật nói như vậy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa.
Khi ấy, có Tỳ-kheo nói rằng:
– Này chư Hiền, nên biết, đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa: “Tỳ- kheo, nếu người do suy niệm mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối trước pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác đều dứt tận; đó gọi là dứt tận sự khổ.”
Họ lại nói rằng:
– Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy?
Rồi họ lại suy nghĩ: “Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thường được đức Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy. Này chư Hiền, hãy cùng nhau đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, yêu cầu Tôn giả nói nghĩa này. Nếu được Tôn giả Đại Ca-chiên-diên phân biệt cho thì chúng ta sẽ khéo nhận lãnh rồi ghi nhớ.”
Rồi các Tỳ-kheo đi đến chỗ của Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi một bên và thưa:
– Thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, nên biết, đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa: “Tỳ-kheo, nếu người do suy niệm mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác đều dứt tận; đó gọi là tận cùng sự khổ.” Chúng tôi liền suy nghĩ rằng: “Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt?” Rồi chúng tôi lại suy nghĩ: “Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thường được đức Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn nói vắn tắt ấy.” Ngưỡng mong Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thương xót và giảng rộng cho!
Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bảo:
– Này chư Hiền, hãy nghe tôi nói ví dụ, người có trí tuệ nghe ví dụ sẽ hiểu rõ nghĩa lý.
Này chư Hiền, ví như có người tìm lõi cây, vì muốn tìm lõi cây nên người ấy cầm búa vào rừng. Người ấy thấy cây đại thọ có rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa và quả. Người ấy không đụng đến rễ, thân, cành, lõi mà chỉ đụng đến nhánh và lá. Những điều chư Hiền nói cũng giống như vậy. Đức Thế Tôn đang ở đây mà chư Hiền lại bỏ Ngài đến tôi để hỏi nghĩa này. Vì sao vậy? Này chư Hiền, nên biết đức Thế Tôn là bậc Có Mắt, là bậc Có Trí; Ngài là pháp, là bậc Pháp Chủ, là Pháp Tướng, là bậc nói nghĩa chơn đế, hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó, chư Hiền, nên đi đến chỗ đức Thế Tôn mà hỏi nghĩa này rằng: “Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào, điều này có nghĩa gì?” Nếu như đức Thế Tôn có nói gì thì chư Hiền hãy khéo léo nhận lãnh và ghi nhớ.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo thưa:
– Đúng vậy, thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, đức Thế Tôn là bậc Có Mắt, là bậc Có Trí; Ngài là pháp, là bậc Pháp Chủ, là bậc Pháp Tướng, là bậc nói nghĩa chơn đế, hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó, chúng tôi nên đi đến chỗ đức Thế Tôn để hỏi nghĩa này: “Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào, điều này có nghĩa gì?” Nếu như đức Thế Tôn có nói gì, chúng tôi khéo léo nhận lãnh rồi ghi nhớ. Nhưng thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, ngài thường được đức Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy. Ngưỡng mong Tôn giả Đại Cachiên-diên thương xót mà giảng rộng cho!
Tôn giả Đại Ca-chiên-diên lại bảo các Tỳ-kheo:
– Vậy này chư Hiền, xin hãy nghe tôi nói!
Này chư Hiền, duyên nhãn và sắc mà sanh nhãn thức. Ba thứ này cùng tụ hội liền có xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng thì có tư duy. Có tư duy thì có niệm. Có niệm thì có phân biệt.
Tỳ-kheo do suy niệm như vậy nên xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối trước pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác đều dứt tận; đó gọi là dứt tận sự khổ.
Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Duyên ý và pháp phát sanh ý thức. Ba thứ này cùng sự tụ hội liền có xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng thì có tư duy. Có tư duy thì có suy niệm. Có suy niệm thì có phân biệt.
Tỳ-kheo do suy niệm như vậy nên xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối trước pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác đều dứt tận; đó gọi là dứt tận sự khổ.
Này chư Hiền, loại trừ con mắt, loại trừ sắc, loại trừ nhãn thức mà có xúc, mà giả thiết có xúc thì điều này không thể có. Nếu không giả thiết xúc mà có cảm thọ, giả thiết có cảm thọ thì điều này không thể có. Nếu không giả thiết cảm thọ mà có giả thiết suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng thì điều này không thể có. Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Loại trừ ý, loại trừ pháp, loại trừ ý thức mà có xúc, giả thiết có xúc thì điều này không thể có. Nếu không giả thiết xúc mà có thọ, giả thiết có thọ thì điều này không thể có. Nếu không giả thiết thọ mà giả thiết có suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng thì điều này không thể có. Này chư Hiền, do con mắt, do sắc, do nhãn mà có xúc, giả thiết có xúc thì điều này có thật. Do giả thiết xúc mà có thọ, giả thiết có thọ thì điều này có thật. Do giả thiết thọ mà giả thiết có suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng thì điều này có thật. Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Do ý, do pháp, do ý thức mà có xúc, chủ trương có xúc thì điều này có thật. Do chủ trương xúc mà có cảm thọ, giả thiết có cảm thọ thì điều này có thật. Do giả thiết có cảm thọ mà giả thiết có suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng thì điều này có thật.
Này chư Hiền, đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa. Tỳ-kheo, nếu người do suy niệm mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, đối trước pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, đấu tranh tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác, bất thiện khác cũng đoạn trừ; đó gọi là dứt tận sự khổ. Đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi. Tôi đã diễn rộng câu ấy, văn ấy như vậy.
Này chư Hiền, chư Hiền có thể đi đến chỗ Phật, tường trình lại đầy đủ. Nếu đúng như nghĩa mà đức Thế Tôn muốn nói thì chư Hiền hãy nhận lãnh và ghi nhớ.
Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói, khéo ghi nhớ, tụng đọc, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả Đại Ca-chiêndiên ba vòng, và đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên và bạch:
– Bạch Thế Tôn, vừa rồi Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất nghỉ ngơi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên đã đem những câu này, văn này mà diễn rộng ra.
Đức Thế Tôn nghe xong, khen rằng:
– Lành thay, lành thay! Trong hàng đệ tử của Ta có vị là bậc có mắt, có trí, có pháp, có nghĩa. Vì sao? Vì khi Tôn sư nói nghĩa này cho đệ tử một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi mà vị đệ tử kia đã diễn rộng ra những câu ấy, văn ấy. Đúng như những gì Tỳ-kheo Đại Ca-chiên-diên đã nói, các thầy hãy nên nhận lãnh rồi ghi nhớ như vậy. Vì sao? Vì nói và quán nghĩa phải như vậy.
Này các Tỳ-kheo, ví như có người nhờ đi đến chỗ rừng vắng, trong rừng sâu, giữa những cây cối, bỗng nhiên gặp được bánh mật, vị ấy ăn, thưởng thức vị ngọt; thiện nam tử cũng giống như vậy, ở trong Pháp, Luật chân chánh này của Ta, tùy theo những gì được quán sát, vị ấy thưởng thức được vị ngọt của nó; quán sát con mắt, thưởng thức được vị ngọt; quán sát tai, mũi, lưỡi, thân, quán sát ý, thưởng thức được vị ngọt.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang cầm quạt hầu Thế Tôn. Tôn giả A-nan liền chắp tay hướng về Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, pháp này tên gọi là gì? Chúng con phải phụng trì như thế nào?
Đức Thế Tôn dạy:
– Này A-nan, pháp này tên gọi là Mật Hoàn Dụ. Thầy hãy nên nhận lãnh và ghi nhớ!
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy nhận lãnh pháp Mật Hoàn Dụ này, phải thường tụng đọc. Vì sao vậy? Này các Tỳ-kheo, pháp Mật Hoàn Dụ này có pháp, có nghĩa, là gốc của Phạm hạnh, dẫn đến trí thông, dẫn đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn. Nếu thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo thì hãy nên khéo nhận lãnh, ghi nhớ pháp Mật Hoàn Dụ này.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.