Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm-câu-lâu. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Chỉ ở đây mới có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba và Sa-môn thứ tư; ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí. Dị đạo hoàn toàn không, không có Sa-môn, Phạm chí. Tùy chỗ trong hội chúng, các thầy hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.
Này các Tỳ-kheo, nếu có người dị đạo đến hỏi các thầy: “Này chư Hiền, các ông có hạnh gì, lực gì, trí gì mà các ông nói như vầy: ‘Chỉ ở đây mới có Samôn thứ nhất, thứ hai, thứ ba và Sa-môn thứ tư; ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí. Dị đạo hoàn toàn không, không có Sa-môn, Phạm chí. Tùy chỗ trong hội chúng mà các ông chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy?’”
Này các Tỳ-kheo, các thầy nên trả lời dị đạo ấy như vầy: “Này chư Hiền, đức Thế Tôn của tôi là bậc có tri, có kiến, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thuyết giảng bốn pháp. Nhân nơi bốn pháp này mà chúng tôi nói như vầy: ‘Chỉ ở đây mới có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba và Sa-môn thứ tư; ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí. Dị đạo hoàn toàn không, không có Sa-môn, Phạm chí. Tùy chỗ trong hội chúng mà chúng tôi rống tiếng rống sư tử như vậy.’ Bốn pháp đó là những gì? Này chư Hiền, chúng tôi tin tưởng đấng Tôn sư, tin pháp, tin giới đức cụ túc, ái kính bạn đồng đạo, cung cách phụng sự. Này chư Hiền, đức Thế Tôn của chúng tôi là bậc có tri, có kiến, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thuyết giảng bốn pháp này. Nhân bốn pháp này mà chúng tôi nói như vầy: ‘Chỉ ở đây mới có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba và Sa-môn thứ tư; ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí. Dị đạo hoàn toàn không, không có Sa-môn, Phạm chí. Tùy chỗ trong hội chúng mà chúng tôi chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo cũng lại nói: “Này chư Hiền, chúng tôi cũng tin đấng Tôn sư, tức Tôn sư chúng tôi; tin pháp, tức pháp của chúng tôi; tin giới cụ túc, giới của chúng tôi; cũng ái kính bạn đồng đạo, cung cách, phụng sự, là bạn đồng đạo xuất gia và tại gia của chúng tôi. Này chư Hiền, giữa hai lời nói này của Sa-môn Cù-đàm và chúng tôi có hơn gì, có ý gì, có sai khác gì chăng?”
Này các Tỳ-kheo, các thầy nên hỏi kẻ dị đạo như vầy: “Này chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là nhiều?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, cứu cánh chỉ có một, cứu cánh không có nhiều.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hỏi tiếp dị đạo: “Này chư Hiền, người có dục mà được cứu cánh hay người không có dục mới được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người không có dục được cứu cánh, không phải người có dục được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi tiếp dị đạo: “Này chư Hiền, người có nhuế được cứu cánh hay người không có nhuế được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người không có nhuế được cứu cánh, không phải người có nhuế được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi tiếp dị đạo: “Này chư Hiền, người có si được cứu cánh hay người không có si được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người không có si được cứu cánh, không phải người có si được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi tiếp dị đạo: “Này chư Hiền, người có ái, có thọ được cứu cánh hay người không có ái, không có thọ được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người không có ái, không có thọ được cứu cánh, không phải người có ái, có thọ được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi tiếp kẻ dị đạo: “Này chư Hiền, người có huệ, có thuyết giảng tuệ được cứu cánh hay người không có huệ, không có thuyết giảng tuệ được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu kẻ dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người có huệ, có thuyết giảng tuệ được cứu cánh, không phải người không có huệ, không thuyết giảng tuệ được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi tiếp dị đạo: “Này chư Hiền, người có ganh ghét, có tranh chấp được cứu cánh hay người không có ganh ghét, không có tranh chấp được cứu cánh?”
Này các Tỳ-kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: “Này chư Hiền, người không có ganh ghét, không có tranh chấp được cứu cánh, không phải người có ganh ghét, có tranh chấp được cứu cánh.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy nói với dị đạo như vầy: “Này chư Hiền, như vậy là các thầy nói có một cứu cánh không phải nhiều cứu cánh; người không có dục được cứu cánh, không phải người có dục được cứu cánh; người không có nhuế được cứu cánh, không phải người có nhuế được cứu cánh; người không có si được cứu cánh, không phải người có si được cứu cánh; người không có ái, không có thọ được cứu cánh, không phải người có ái, có thọ được cứu cánh; người có huệ, có thuyết giảng được cứu cánh, không phải người không có huệ, không có thuyết giảng được cứu cánh; người không có ganh ghét, không có tranh chấp được cứu cánh, không phải người có ganh ghét, có tranh chấp được cứu cánh.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nương nơi vô lượng kiến, vị đó nhất định nương nơi hai kiến: Hữu kiến và vô kiến. Nếu nương nơi hữu kiến, vị đó liền đắm trước hữu kiến, nương nơi hữu kiến, y trú nơi hữu kiến mà ganh ghét, tranh chấp với vô kiến. Nếu nương nơi vô kiến, vị đó liền đắm trước vô kiến, nương nơi vô kiến mà ganh ghét, tranh chấp với hữu kiến. Nếu có Sa-môn, Phạm chí không biết một cách như thật về nhân, về tập, về diệt, về tận, vị ngọt, tai họa và sự xuất yếu; thì vị đó nhất định có dục, có nhuế, có si, có ái, có thọ, không có huệ, không có thuyết giảng huệ, có ganh ghét, có tranh chấp, vị đó không lìa khỏi sanh, già, bệnh, chết; cũng không thể thoát khỏi sự buồn rầu, kêu khóc, lo khổ, ảo não, không vượt khỏi bờ khổ. Nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với những loại kiến này mà biết một cách như thật về nhân, về tập, về diệt, về tận, vị ngọt, tai họa và sự xuất yếu; thì vị đó nhất định không có dục, không có nhuế, không có si, không có ái, không có thọ, có huệ, có thuyết giảng huệ, không có ganh ghét, không có tranh chấp, vị đó lìa khỏi sanh, già, bệnh, chết; cũng thoát khỏi sự buồn rầu, kêu khóc, khổ não, vượt khỏi bờ khổ.
Hoặc có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thọ, chỉ thi hành đoạn trừ dục thọ mà không chủ trương đoạn trừ giới thọ, kiến thọ, ngã thọ. Vì sao vậy? Vì vị Sa-môn, Phạm chí đó không biết đúng như thật về ba xứ. Do đó, vị ấy chủ trương đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thọ. Lại có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ dục thọ, đoạn trừ tất cả thọ, chỉ chủ trương đoạn trừ dục thọ, giới thọ; nhưng không chủ trương đoạn trừ kiến thọ, ngã thọ. Vì sao vậy? Vì vị Sa-môn, Phạm chí đó không biết đúng như thật về hai xứ. Do đó, vị ấy tuy đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thọ. Lại có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thọ, chỉ chủ trương đoạn trừ dục thọ, giới thọ, kiến thọ, mà không chủ trương đoạn trừ ngã thọ. Vì sao vậy? Vị Sa-môn, Phạm chí đó không biết đúng như thật về một xứ. Do đó, vị ấy chủ trương đoạn trừ thọ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thọ. Đối với Pháp, Luật như vậy, nếu người nào tin đấng Tôn sư thì người đó không phải là chân chánh, không phải đệ nhất; nếu tin pháp thì cũng không phải là chân chánh, không phải là đệ nhất; nếu tin giới đức Cụ túc thì cũng không phải là chân chánh, không phải đệ nhất; nếu ái kính bạn đồng đạo, cung cách, phụng sự thì cũng không phải là chân chánh, không phải đệ nhất.
Nếu có đức Như Lai ra đời, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu thì Ngài cũng chủ trương đoạn trừ thọ; ngay trong đời này, Ngài chủ trương đoạn trừ tất cả thọ, chủ trương đoạn trừ dục thọ, giới thọ, kiến thọ, ngã thọ. Bốn thọ này nhân nơi đâu, tập khởi do đâu, phát sanh từ đâu, lấy gì làm gốc? Bốn thọ này nhân nơi vô minh, tập khởi do vô minh, phát sanh từ vô minh, lấy vô minh làm gốc. Nếu có Tỳ-kheo mà vô minh đã tận diệt, minh tuệ đã phát sanh thì vị đó từ đây không còn trở lại thọ dục, thọ giới, thọ kiến và thọ ngã nữa. Vị đó đã không thọ rồi thì không còn lo sợ, đã không lo sợ nên đoạn trừ nhân duyên, chắc chắn chứng đắc Niết-bàn và biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.’ Trong Pháp, Luật chân chánh như vậy, nếu người nào tin đấng Tôn sư thì đó là người chân chánh, là người bậc nhất; nếu tin pháp thì đó là người chân chánh, là người bậc nhất; nếu tin giới đức Cụ túc thì đó là người chân chánh, là người bậc nhất; nếu ái kính bạn đồng đạo, cung cách, phụng sự thì đó là người chân chánh, là người bậc nhất. Này chư Hiền, chúng tôi có hạnh như vậy, có lực như vậy, có trí như vậy. Nhân nơi đó mà chúng tôi nói như vầy: ‘Chỉ ở đây mới có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ tư; ngoài đây ra, không có Sa-môn, Phạm chí. Dị đạo hoàn toàn không, không có Sa-môn, Phạm chí. Do đó, tùy chỗ trong hội chúng mà chúng tôi chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’”
Đức Phật thuyết giảng như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.