Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

100. KINH KHỔ ẤM (B)

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật đến Thích-kỳ-sấu, trú tại Ca-duy-la-vệ, vườn Ni-câu-loại.
Bấy giờ, Thích Ma-ha-nam, sau bữa ăn trưa tìm đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên và bạch:
– Bạch Thế Tôn, con biết Thế Tôn dạy pháp như vậy, khiến tâm con được diệt ba uế: Nhiễm tâm uế, nhuế tâm uế và si tâm uế. Bạch đức Thế Tôn, con biết pháp ấy như vậy, nhưng trong tâm con lại sanh nhiễm pháp, nhuế pháp và si pháp. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như vầy: “Ta có pháp gì không bị diệt trừ, khiến tâm ta lại sanh pháp nhiễm, pháp nhuế và pháp si?”
Đức Thế Tôn bảo:
– Này Ma-ha-nam, ông có một pháp không bị diệt trừ, nghĩa là ông sống tại gia, không chí tín, không lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Này Ma-ha-nam, nếu ông diệt được pháp đó, ông sẽ không sống tại gia mà chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Bởi vì ông có một pháp không bị diệt trừ là sống tại gia, không chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.
Khi ấy, Thích Ma-ha-nam liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nói pháp cho con nghe, để tâm con được thanh tịnh, trừ nghi, được đến đạo!
Đức Thế Tôn dạy:
– Này Ma-ha-nam, có đặc tính của năm dục, đáng yêu, đáng mơ tưởng, hoan hỷ, đi đôi với dục, khiến cho người ta ham thích. Những gì là năm: Đó là mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị và thân cảm xúc. Do đây mà nhà vua và quyến thuộc của nhà vua được an lạc, hoan hỷ.
Này Ma-ha-nam, vị ngọt của dục chỉ cùng cực đến đó chứ không hơn nữa, nhưng tai họa của nó thì lại rất nhiều. Này Ma-ha-nam, thế nào là tai họa của dục? Này Ma-ha-nam, một thiện nam tử tùy theo kỹ thuật riêng để tự mưu sinh, hoặc làm ruộng, buôn bán, hoặc đọc sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh thơ, hoặc làm võ tướng, hoặc phụng sự vua. Người ấy khi gặp lạnh phải chịu lạnh, khi gặp nóng phải chịu nóng, bị đói khát, mệt nhọc, bị muỗi mòng châm chích; người ấy phải làm nghề nghiệp như thế để mong kiếm được tiền của. Này Ma-ha-nam, thiện nam tử ấy bằng những phương tiện như vậy, làm những công việc như vậy, để mong cầu như vậy, nhưng nếu không kiếm được tiền của thì sinh khổ sở, lo buồn, rầu rĩ, tâm thần si ám và nói rằng: “Luống công làm lụng, khổ nhọc vô ích mà không có kết quả.” Này Ma-ha-nam, thiện nam tử ấy, bằng những phương tiện như vậy, làm công việc như vậy, mong cầu như vậy, nếu kiếm được tiền của, người ấy sinh yêu quý, giữ gìn, cất giấu. Vì sao vậy? “Tài vật này của ta, đừng để bị vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát, hoặc xuất tài vô lợi, hoặc làm việc gì mà không thành tựu.” Người ấy giữ gìn, cất giấu như vậy, nhưng nếu rủi bị vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát thì sinh khổ sở, lo buồn, rầu rĩ, tâm tánh si ám và cho rằng: “Vật ta yêu quý nhớ nghĩ suốt đêm ngày, nay đã không còn.” Này Ma-ha-nam, đó là nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mẹ tranh giành với con, con tranh giành với mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con, dòng họ giành giật lẫn nhau. Vì giành giật lẫn nhau như vậy nên mẹ bêu xấu con, con bêu xấu mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con dòng họ bêu xấu lẫn nhau; thân thích còn vậy huống nữa là người ngoài. Đó là những nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên vua tranh giành với vua, Phạm chí tranh giành với Phạm chí, cư sĩ tranh giành với cư sĩ, dân tranh giành với dân, nước này tranh giành với nước nọ. Bởi tranh giành nên thù nghịch nhau rồi dùng đủ loại binh khí để làm hại nhau, hoặc nắm tay thoi, ném đá, hoặc dùng gậy đánh, đao chặt. Trong khi giao đấu kẻ chết, người sợ hãi, khổ sở vô cùng. Này Ma-ha-nam, đó là những nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoác trường bào, cầm giáo, cung tên, hoặc cầm đao thuẫn đi vào quân trận, hoặc đánh nhau bằng voi, bằng ngựa, bằng xe, hoặc dùng bộ binh đánh nhau, hoặc cho trai gái đánh nhau. Trong khi giao đấu, kẻ chết, người sợ hãi, khổ sở vô cùng. Này Ma-ha-nam, đó là nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoác trường bào, cầm giáo, cung tên; hoặc cầm đao thuẫn đi tranh đoạt nước người, công thành, phá lũy, chống đối lẫn nhau, thúc trống, thổi kèn, bắt loa kêu réo; hoặc dùng chày đập, hoặc dùng mâu kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc lăn đá đè, hoặc dùng nỏ lớn, hoặc rót nước đồng sôi vào mắt. Trong khi giao đấu, kẻ chết, người sợ hãi, khổ sở vô cùng. Này Ma-ha-nam, đó là nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoác trường bào, cầm giáo, cung tên, hoặc cầm đao thuẫn vào xóm, vào ấp, vào nước, vào thành thị, đục vách, phá kho, cướp đoạt tài vật, chặn đường giao thông, hoặc đến ngõ khác phá xóm, phá làng, phá thành, diệt nước. Lúc đó, hoặc bị người của vua bắt được, đem khảo trị đủ cách: Chặt tay, chặt chân, chặt cả tay chân; cắt tai, cắt mũi, hoặc cắt cả tai mũi; hoặc lóc từng miếng thịt; bứt râu, bứt tóc, hoặc bứt cả râu tóc; hoặc nhốt vào cũi, quấn vải hỏa thiêu; hoặc ủ trong cát, buộc cỏ rồi đốt; hoặc bỏ vào bụng lừa sắt; hoặc bỏ vào miệng heo sắt; hoặc đặt vào miệng cọp sắt rồi đốt; hoặc bỏ vào vạc đồng, hoặc bỏ vào vạc sắt rồi nấu; hoặc chặt ra từng khúc, hoặc dùng xoa bén đâm; hoặc lấy móc sắt móc; hoặc bắt nằm trên giường sắt rồi lấy dầu sôi rót; hoặc bắt ngồi trong cối sắt rồi lấy chày sắt giã; hoặc cho rắn rít mổ cắn; hoặc dùng roi quất; hoặc dùng gậy thọc; hoặc dùng dùi đánh; hoặc đem thây bêu ở nguyên quán; hoặc chém đầu rồi bêu lên trên cây. Trong trường hợp đó, kẻ ấy hoặc chết, hoặc sợ hãi, khổ sở vô cùng. Này Ma-ha-nam, đó là những nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu, ý làm ác. Người ấy về sau bị bệnh nằm liệt giường, hoặc nằm lăn trên đất vì khổ bức thân, toàn thân cảm giác khổ sở vô cùng, không còn được yêu thích. Người ấy vì lúc trước thân làm ác, khẩu, ý làm ác, khi sắp chết chúng che ngay trước mắt, giống như mặt trời sắp lặn, bóng sườn núi lớn che lấp mặt đất. Cũng vậy, người ấy bị những ác hạnh của thân, khẩu và ý che lấp trước mắt, người ấy nghĩ rằng: “Các ác hạnh ta làm trước kia bây giờ chúng che lấp trước mắt ta. Trước kia ta không tạo phước nghiệp mà chỉ tạo toàn ác nghiệp. Giả sử có ai chỉ làm việc ác, hung bạo, không tạo phước, không hành thiện, khi sống không biết lo sợ, gần chết không chỗ nương cậy, không chỗ quay về. Người ấy thác sanh về chỗ nào thì ta chắc cũng sẽ thác sanh về chỗ đó.” Do đó, sanh hối hận mà chết không an lành, chết không được phước. Này Ma-ha-nam, đó là những nỗi khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, này Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu, ý làm ác. Người ấy vì thân làm ác, khẩu, ý làm ác nên nhân nơi đó, duyên nơi đó mà khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Này Ma-ha-nam, đó là những nỗi khổ ở đời sau, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Này Ma-ha-nam, vì vậy nên biết dục tuyệt đối không có lạc, chỉ toàn là khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nếu không biết đúng như thật, vị ấy bị dục ngăn che, chẳng được xả dục và vô thượng tịch tĩnh. Này Ma-ha-nam, vị đa văn Thánh đệ tử như vậy sẽ nhân nơi dục mà bị thối chuyển. Này Ma-ha-nam, Ta biết là dục không có lạc mà chỉ toàn là khổ hoạn. Này Ma-ha-nam, Ta biết đúng như thật nên không bị dục ngăn che, cũng không bị pháp ác ràng buộc, vì vậy được xả lạc và vô thượng tịch tĩnh. Này Ma-ha-nam, vì vậy Ta không nhân nơi dục mà bị thối chuyển.
Này Ma-ha-nam, một hôm, du hóa thành Vương Xá, trú trong động Tiên nhơn (Thất Diệp), trên núi Bệ-đa-la. Này Ma-ha-nam, bấy giờ vào lúc xế trưa, Ta từ chỗ ngồi thiền đứng dậy, đi đến Quảng Sơn, Ta thấy ở đó có nhiều người Ni-kiền đang tu hạnh không ngồi, thường đứng mà không ngồi, chịu khổ cùng cực. Ta bước đến hỏi: “Này các Ni-kiền, vì sao các ông tu hạnh không ngồi này, thường đứng không ngồi, chịu khổ như vậy?” Họ trả lời như vầy: “Thưa Cù- đàm, tôi có Tôn sư Ni-kiền tên là Thân Tử, ngài dạy tôi rằng: ‘Kiếp trước ông tạo nghiệp bất thiện, nhờ khổ hạnh này ông sẽ diệt được. Nếu nay giữ gìn diệu hạnh của thân, giữ gìn diệu hạnh của khẩu, ý thì sẽ do nhân đó, duyên đó mà không trở lại làm ác, không tạo nghiệp bất thiện.’”
Này Ma-ha-nam, Ta hỏi lại: “Này các Ni-kiền, các ông tin tưởng Tôn sư, không hề nghi ngờ gì cả chăng?” Họ trả lời Ta: “Đúng vậy, thưa Cù-đàm, chúng tôi tin tưởng các đức Tôn sư không hề nghi ngờ gì cả!”
Này Ma-ha-nam, Ta lại hỏi: “Này các Ni-kiền, nếu quả như vậy thì Tôn sư Ni-kiền của các ông trước kia đã tạo các ác nghiệp bất thiện rất nặng; vị ấy vốn trước kia là Ni-kiền rồi chết đi, nay sanh vào nhân gian, xuất gia làm Ni-kiền, tu hạnh không ngồi, thường đứng không ngồi, chịu khổ sở như vậy, cũng như các ông và đệ tử các ông vậy.” Họ lại nói với Ta: “Thưa Cù-đàm, an lạc không phải do an lạc mà có được mà chủ yếu do khổ đau, như sự an lạc của vua Tầnbệ-ta-la thì Sa-môn Cù-đàm không bằng vậy.”
Ta lại nói: “Các ông si cuồng, nói những lời vô nghĩa. Vì sao vậy? Vì các ông không khéo léo, không hiểu gì cả mà cũng không biết thời, khi các ông nói: ‘Như sự an lạc của vua Tần-bệ-ta-la thì Sa-môn Cù-đàm không bằng được.’ Này các Ni-kiền, đáng lẽ các ông phải hỏi như thế này: ‘Giữa vua Tần-bệ-ta-la và Sa-môn Cù-đàm, sự an lạc nào hơn?’ Này các Ni-kiền, nếu như Ta nói rằng sự an lạc của Ta hơn, vua Tần-bệ-ta-la không bằng, thì này các Ni-kiền, các ông có thể nói như vầy: ‘Sự an lạc của vua Tần-bệ-ta-la, Sa-môn Cù-đàm không bằng.’” Các Ni-kiền đó liền nói: “Thưa Cù-đàm, nay chúng tôi muốn hỏi Cù- đàm, giữa vua Tần-bệ-ta-la và Sa-môn Cù-đàm, ai an lạc hơn?”
Ta lại nói: “Này các Ni-kiền, Ta nay hỏi các ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Này các Ni-kiền, ý các ông thế nào? Vua Tần-bệ-ta-la có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong bảy ngày bảy đêm không?” Các Ni-kiền đáp: “Dạ không, thưa Cù-đàm!”
“ Thế có được hoan hỷ, khoái lạc trong vòng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày một đêm không?”
Ni-kiền đáp: “Dạ không, thưa Cù-đàm!"
Ta lại hỏi: “Này các Ni-kiền, Ta có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong một ngày một đêm không?”
Các Ni-kiền đáp: “Dạ được, thưa Cù-đàm!”
“Thế có được hoan hỷ trong vòng hai, ba, bốn, năm, sáu cho đến bảy ngày đêm không?”
Các Ni-kiền đáp: “Dạ được, thưa Cù-đàm!”
Ta lại hỏi tiếp: “Này các Ni-kiền, ý các ông thế nào? Ai sung sướng hơn, vua Tần-bệ-ta-la hay là Ta?” Các Ni-kiền đáp: “Thưa Cù-đàm, như chúng tôi hiểu theo sự trình bày của Sa-môn Cù-đàm thì Sa-môn Cù-đàm sung sướng hơn, vua Tần-bệ-ta-la không bằng.”
Này Ma-ha-nam, vì vậy nên biết là nơi dục không có lạc, chỉ toàn là khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nên thấy như vậy. Nếu đa văn Thánh đệ tử không thấy đúng như vậy thì họ sẽ bị dục ngăn che, bị ác, bất thiện pháp trói buộc, không đạt được xả lạc và an tịnh vô thượng. Như vậy, này Ma-ha-nam, họ sẽ do nơi dục mà bị thối chuyển.
Này Ma-ha-nam, Ta biết là nơi dục không có lạc, chỉ toàn là khổ hoạn. Ta biết đúng như thật nên không bị dục ngăn che, cũng không bị pháp ác, bất thiện ràng buộc, vì vậy được xả lạc và giải thoát vô thượng. Này Ma-ha-nam, vì vậy Ta không do dục mà bị thối chuyển.
Phật dạy như vậy, Thích Ma-ha-nam và các Tỳ-kheo nghe xong đều hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.