Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Một thời, Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm-câu-lâu.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan một mình tĩnh tọa tại một nơi vắng vẻ, tâm nghĩ như vầy: “Kỳ diệu thay, pháp duyên khởi này thật là vô cùng sâu sắc, và sự minh tri về duyên khởi cũng vô cùng sâu sắc! Nhưng ta quán sát thấy rất nông cạn, rất nông cạn!” Rồi vào lúc xế trưa, Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, qua đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Ngài, rồi đứng sang một bên và bạch:
- Bạch Thế Tôn, hôm nay con một mình tĩnh tọa tại một nơi thanh vắng, tâm nghĩ như vầy: “Kỳ diệu thay, pháp duyên khởi này thật là vô cùng sâu sắc, và sự minh tri về duyên khởi cũng vô cùng sâu sắc! Nhưng ta quán sát thấy rất nông cạn, rất nông cạn!” Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, thầy chớ nghĩ rằng: “Pháp duyên khởi này rất nông cạn, rất nông cạn!” Vì sao? Vì pháp duyên khởi này vô cùng sâu sắc và sự minh tri về duyên khởi cũng vô cùng sâu sắc. Này A-nan, đối với pháp duyên khởi này, vì không biết như thật, thấy như thật, không giác, không thấu triệt nên khiến chúng sanh dính móc nhau, rối loạn như khung cửi, như cỏ uẩn-man, vội vàng, huyên náo đi từ đời này đến đời kia, từ đời kia đến đời này, qua lại, lại qua, không thể ra khỏi vòng sanh tử. Này A-nan, cho nên phải biết pháp duyên khởi này thật vô cùng sâu sắc và sự minh tri về duyên khởi cũng vô cùng sâu sắc.
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Già và chết có do duyên không?” Nên đáp như vầy: “Già chết có do duyên.” Nếu có người hỏi: “Già chết do duyên gì?” Nên đáp như vầy: “Duyên nơi sanh vậy.”
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Sanh có do duyên không?” Nên đáp: “Sanh cũng có duyên.” Nếu có người hỏi: “Sanh do duyên gì?” Nên đáp: “Do duyên nơi hữu vậy.”
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Hữu có do duyên không?” Nên đáp: “Hữu cũng do duyên.” Nếu có người hỏi: “Hữu do duyên gì?” Nên đáp: “Do duyên nơi thủ vậy.”
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Thủ có do duyên không?” Nên đáp: “Thủ cũng do duyên.” Nếu có người hỏi: “Thủ do duyên gì?” Nên đáp: “Do duyên nơi ái vậy.”
Này A-nan, đó là duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, duyên già chết có buồn lo, khóc lóc, buồn khổ, ảo não đều duyên nơi già mà có, như thế là trọn đủ toàn khối khổ đau to lớn.
Này A-nan, duyên sanh có già chết. Ở đây nói duyên sanh có già chết thì nên biết rằng đó gọi là duyên sanh có già chết. Này A-nan, nếu không có sự sanh như cá và loài cá, chim và loài chim, muỗi và loài muỗi, rồng và loài rồng, thần và loài thần, quỷ và loài quỷ, trời và loài trời, người và loài người; thì này A-nan, các loài chúng sanh ấy tùy theo những chỗ ấy; nếu không có sự sanh, mỗi loài, mỗi loài đều không sanh, giả sử tách rời sự sanh, có già chết chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của già chết, tập của già chết, bản nguyên của già chết, duyên của già chết chính là sanh. Vì sao? Vì duyên sanh nên có già chết.
Này A-nan, duyên hữu có sanh. Ở đây nói duyên hữu có sanh thì nên biết rằng đó gọi là duyên hữu có sanh. Này A-nan, nếu không có sự hữu như cá và loài cá, chim và loài chim, muỗi và loài muỗi, rồng và loài rồng, thần và loài thần, quỷ và loài quỷ, trời và loài trời, người và loài người; thì này A-nan, các loài chúng sanh ấy tùy theo những chỗ ấy mà không có, mỗi loài, mỗi loài đều không có hữu, giả sử tách rời sự hữu, có sanh chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của sanh, tập khởi của sanh, bản nguyên của sanh, duyên của sanh chính là hữu. Vì sao? Vì duyên hữu nên có sanh.
Này A-nan, duyên thủ có hữu. Ở đây nói duyên thủ có hữu thì nên biết rằng đó gọi là duyên thủ có hữu. Này A-nan, nếu không có thủ, mỗi loài, mỗi loài đều không có thủ, giả sử tách rời thủ thì sẽ có hữu chăng, thi thiết có hữu chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của hữu, tập khởi của hữu, bản nguyên của hữu, duyên của hữu chính là thủ. Vì sao? Vì duyên thủ nên có hữu.
Này A-nan, duyên ái có thủ. Ở đây nói duyên ái có thủ thì nên biết rằng đó gọi là duyên ái có thủ. Này A-nan, nếu không có ái, mỗi loài, mỗi loài đều không có ái, giả sử tách rời ái, sẽ có thủ, thi thiết có thủ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của thủ, tập khởi của thủ, bản nguyên của thủ, duyên của thủ chính là ái. Vì sao? Vì duyên ái nên có thủ.
Này A-nan, đó là duyên ái có tìm cầu, duyên tìm cầu có lợi, duyên lợi có phần, duyên phần có nhiễm dục, duyên nhiễm dục có đắm trước, duyên đắm trước có bỏn xẻn, duyên bỏn xẻn có keo kiệt, duyên keo kiệt có thủ hộ. Này A-nan, duyên thủ hộ có đao gậy, đấu tranh, dua nịnh, lừa gạt, nói láo, hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là trọn đủ toàn khối khổ đau to lớn. Này A-nan, nếu không có thủ hộ, tất cả đều không có thủ hộ, giả sử tách rời thủ hộ thì sẽ có đao gậy, đấu tranh, dua nịnh, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác, bất thiện chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng đao gậy, đấu tranh, dua nịnh, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác, bất thiện thì nhân của chúng, tập khởi của chúng, bản nguyên của chúng và duyên của chúng chính là thủ hộ. Vì sao? Vì duyên thủ hộ nên có đao gậy, đấu tranh, dua nịnh, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác, bất thiện. Như vậy là trọn đủ toàn khối khổ đau to lớn.
Này A-nan, duyên keo kiệt có thủ hộ. Ở đây nói duyên keo kiệt có thủ hộ thì nên biết rằng đó gọi là duyên keo kiệt có thủ hộ. Này A-nan, nếu không có keo kiệt, tất cả đều không có keo kiệt, giả sử tách rời keo kiệt thì có thủ hộ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của thủ hộ, tập khởi của thủ hộ, bản nguyên của thủ hộ, duyên của thủ hộ chính là keo kiệt. Vì sao? Vì duyên keo kiệt nên có thủ hộ.
Này A-nan, duyên bỏn xẻn có keo kiệt. Ở đây nói duyên bỏn xẻn có keo kiệt thì nên biết rằng đó gọi là duyên bỏn xẻn có keo kiệt. Này A-nan, nếu không có bỏn xẻn, tất cả đều không có bỏn xẻn, giả sử tách rời bỏn xẻn thì có keo kiệt chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của keo kiệt, tập khởi của keo kiệt, bản nguyên của keo kiệt, duyên của keo kiệt chính là bỏn xẻn. Vì sao? Vì duyên bỏn xẻn nên có keo kiệt.
Này A-nan, duyên đam trước có bỏn xẻn. Ở đây nói duyên đam trước có bỏn xẻn thì nên biết rằng đó gọi là duyên đam trước có bỏn xẻn. Này A-nan, nếu không có đam trước, tất cả đều không có đam trước, giả sử tách rời đam trước thì có bỏn xẻn chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của bỏn xẻn, tập khởi của bỏn xẻn, bản nguyên của bỏn xẻn, duyên của bỏn xẻn chính là đam trước. Vì sao? Vì duyên đam trước nên có bỏn xẻn.
Này A-nan, duyên dục có đam trước. Ở đây nói duyên dục có đam trước thì nên biết rằng đó gọi là duyên dục có đam trước. Này A-nan, nếu không có dục, tất cả đều không có dục, giả sử tách rời dục thì có đam trước chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của đam trước, tập khởi của đam trước, bản nguyên của đam trước, duyên của đam trước chính là dục. Vì sao? Vì duyên dục nên có đam trước.
Này A-nan, duyên phần có nhiễm dục. Ở đây nói duyên phần có nhiễm dục thì nên biết rằng đó gọi là duyên phần có nhiễm dục. Này A-nan, nếu không có phần, tất cả đều không có phần, giả sử tách rời phần thì có nhiễm dục chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của nhiễm dục, tập khởi của nhiễm dục, bản nguyên của nhiễm dục, duyên của nhiễm dục chính là phần. Vì sao? Vì duyên phần nên có nhiễm dục vậy.
Này A-nan, duyên lợi có phần. Ở đây nói duyên lợi có phần thì nên biết rằng đó gọi là duyên lợi có phần. Này A-nan, nếu không có lợi, tất cả đều không có lợi, giả sử tách rời lợi thì có phần chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của phần, tập khởi của phần, bản nguyên của phần, duyên của phần chính là lợi. Vì sao? Vì duyên lợi nên có phần.
Này A-nan, duyên tìm cầu có lợi. Ở đây nói duyên tìm cầu có lợi thì nên biết rằng đó là duyên tìm cầu có lợi. Này A-nan, nếu không có tìm cầu, tất cả đều không có tìm cầu, giả sử tách rời tìm cầu thì có lợi chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, nhân của lợi, tập khởi của lợi, bản nguyên của lợi, duyên của lợi chính là tìm cầu. Vì sao? Vì duyên tìm cầu nên có lợi.
Này A-nan, duyên ái có tìm cầu. Ở đây nói duyên ái có tìm cầu thì nên biết rằng đó gọi là duyên ái có tìm cầu. Này A-nan, nếu không có ái, tất cả đều không có ái, giả sử tách rời ái thì có tìm cầu chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của tìm cầu, tập khởi của tìm cầu, bản nguyên của tìm cầu, duyên của tìm cầu chính là ái. Vì sao? Vì duyên ái nên có tìm cầu.
Này A-nan, dục ái và hữu ái, hai pháp này nhân thọ, duyên thọ đưa đến. Này A-nan, nếu có người hỏi: “Thọ có duyên không?” Nên đáp: “Thọ cũng có duyên.” Nếu có người hỏi: “Thọ có duyên gì?” Nên đáp: “Duyên xúc.” Nên biết rằng duyên xúc có thọ. Này A-nan, nếu không có nhãn xúc, tất cả đều không có nhãn xúc, giả sử tách rời nhãn xúc thì có duyên nhãn xúc mà sanh ra lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, nếu không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, tất cả đều không có ý xúc, giả sử tách rời ý xúc thì sẽ có duyên ý xúc mà sanh ra lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của thọ, tập khởi của thọ, bản nguyên của thọ, duyên của thọ chính là xúc. Vì sao? Vì duyên xúc nên có thọ vậy.
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Xúc có duyên không?” Nên đáp: “Xúc có duyên.” Nếu có người hỏi: “Xúc có duyên gì?” Nên đáp: “Duyên danh sắc.” Nên biết rằng duyên danh sắc có xúc. Này A-nan, sở hành, sở duyên có danh thân, ly hành này, ly duyên này thì có hữu đối xúc chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, sở hành, sở duyên có sắc thân, ly hành, ly duyên này thì có tăng ngữ xúc chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Giả sử ly danh thân và sắc thân thì sẽ có xúc, thi thiết có xúc chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, cho nên biết rằng nhân của xúc, tập khởi của xúc, bản nguyên của xúc, duyên của xúc chính là danh sắc. Vì sao? Vì duyên danh sắc nên có xúc.
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Danh sắc có duyên chăng?” Nên đáp: “Danh sắc có duyên.” Nếu có người hỏi: “Danh sắc có duyên gì?” Nên đáp: “Duyên thức.” Nên biết rằng duyên thức có danh sắc. Này A-nan, nếu thức không vào thai mẹ mà chỉ có danh sắc thì thành thân này chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, nếu thức mới vào thai liền ra tức khắc thì danh sắc hợp với tinh chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, nếu thức của trẻ nhỏ, con trai hay con gái bị đoạn hoại, không còn thì danh sắc tăng trưởng dần được chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của danh sắc, tập khởi của danh sắc, bản nguyên của danh sắc, duyên của danh sắc chính là thức. Vì sao? Vì duyên thức nên có danh sắc.
Này A-nan, nếu có người hỏi: “Thức có duyên chăng?” Nên đáp: “Thức có duyên.” Nếu có người hỏi: “Thức có duyên gì?” Nên đáp: “Duyên danh sắc.” Nên biết rằng duyên danh sắc có thức. Này A-nan, nếu thức không có danh sắc, nếu thức không an lập, không dựa vào danh sắc thì thức có sanh, có già, có bệnh, có chết, có khổ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Cho nên, này A-nan, nên biết rằng nhân của thức, bản nguyên của thức, tập khởi của thức, duyên của thức chính là danh sắc. Vì sao? Vì duyên danh sắc nên có thức.
Này A-nan, đó là duyên danh sắc có thức, duyên thức cũng có danh sắc; do đó có tăng ngữ, do tăng ngữ có truyền thuyết, do truyền thuyết mà có thể thi thiết là có, nghĩa là thức và danh sắc cùng đi đôi vậy.
Này A-nan, thế nào là có một loại kiến chấp có ngã?
Tôn giả A-nan bạch đức Thế Tôn:
- Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ của pháp, pháp do Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn thuyết pháp, con nay nghe xong, được biết ý nghĩa một cách rộng rãi.
Đức Phật dạy:
- Này A-nan, hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ phân biệt cho thầy nghe ý nghĩa này!
Tôn giả A-nan vâng lời dạy, lắng nghe!
Phật dạy:
- Này A-nan, hoặc có kiến chấp thọ là ngã. Hoặc lại có kiến chấp không cho rằng thọ là ngã, nhưng ngã có cảm thọ, mà tính cách của ngã là khả năng cảm thọ. Hoặc lại có kiến chấp không cho rằng thọ là ngã và cũng không cho rằng ngã có cảm thọ, vì tính cách của ngã là khả năng cảm thọ, mà chỉ cho rằng ngã không cảm thọ gì cả.
Này A-nan, nếu có người cho rằng thọ là ngã thì nên hỏi người ấy rằng: “Ông có ba cảm thọ: Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; trong ba cảm thọ này, ông cho thọ nào là ngã ?” Này A-nan, nên nói tiếp với người ấy: Nếu lúc có cảm thọ về lạc thọ thì ngay lúc ấy, hai cảm thọ kia là khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ diệt mất; lúc ấy, chỉ có cảm thọ về lạc thọ, nhưng lạc thọ là pháp vô thường, khổ, hoại diệt; nếu khi lạc thọ diệt rồi thì người ấy há không nghĩ rằng: “Chẳng phải là ngã diệt” chăng?
Này A-nan, nếu chỉ có cảm thọ về khổ thọ thì lúc ấy hai cảm thọ kia là lạc thọ và bất khổ bất lạc thọ diệt mất; người ấy, lúc đó chỉ có cảm thọ về khổ thọ, nhưng khổ thọ là pháp vô thường, khổ, hoại diệt; nếu khổ thọ đã diệt thì người ấy há không nghĩ rằng: “Chẳng phải là ngã diệt” chăng?
Này A-nan, nếu chỉ có cảm thọ về bất khổ bất lạc thọ thì lúc ấy cả hai cảm thọ kia là lạc thọ và khổ thọ diệt mất; người ấy, lúc đó chỉ có cảm thọ về bất khổ bất lạc thọ, nhưng bất khổ bất lạc thọ là pháp vô thường, khổ, hoại diệt; nếu bất khổ bất lạc thọ đã diệt thì người ấy há không nghĩ rằng: “Chẳng phải là ngã diệt” chăng?
Này A-nan, thọ là pháp vô thường như vậy, lại xen lẫn khổ và lạc thì còn chấp rằng thọ là ngã chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, vì thọ là pháp vô thường như vậy, lại xen lẫn khổ và lạc, cho nên không nên chấp rằng thọ là ngã.
Này A-nan, nếu lại có một loại kiến chấp không cho rằng thọ là ngã, nhưng ngã có cảm thọ, và cho rằng tính cách của ngã là khả năng cảm thọ thì nên nói với người ấy: “Nếu ông không có thọ thì thọ không thể có, và không thể nói rằng: ‘Cái này là sở hữu của tôi.’” Này A-nan, người ấy còn chấp như vầy: “Thọ không phải là ngã, nhưng ngã có cảm thọ và cho rằng tính cách của ngã là khả năng cảm thọ” nữa chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, cho nên người ấy không nên chấp như vầy: “Thọ không phải là ngã, nhưng ngã có cảm thọ, và tính cách của ngã là khả năng cảm thọ.”
Này A-nan, nếu lại có một loại kiến chấp không cho rằng thọ là ngã, cũng không cho rằng ngã có cảm thọ và tính cách của ngã là khả năng cảm thọ, mà chỉ chấp rằng ngã không cảm thọ gì cả thì nên nói với người ấy: “Nếu ông không có cảm thọ, hoàn toàn không có cảm thọ, nhưng nếu ngã ở ngoài cảm thọ thì không thể nói ngã thanh tịnh.” Này A-nan, người kia còn chấp thọ không phải là ngã, cũng không chấp ngã có cảm thọ, tính cách của ngã là khả năng cảm thọ, mà chỉ chấp ngã hoàn toàn không có cảm thọ nữa chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, cho nên người kia không nên chấp như vầy: “Thọ không phải là ngã, cũng không chấp, ngã có cảm thọ.” Người ấy chỉ còn chấp rằng ngã là khả năng cảm thọ, mà chỉ chấp ngã hoàn toàn không có cảm thọ. Đó gọi là một loại kiến chấp có ngã.
Này A-nan, thế nào là có loại kiến chấp không cho rằng có ngã?
Tôn giả A-nan bạch đức Thế Tôn:
- Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ của pháp, pháp do Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn nói pháp, giảng dạy, con nay nghe rồi được biết ý nghĩa rộng rãi.
Đức Phật bảo:
- Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm, Ta sẽ phân biệt cho thầy nghe ý nghĩa này!
Tôn giả A-nan vâng lời, lắng nghe.
Phật dạy:
- Này A-nan, hoặc có người không cho rằng thọ là ngã, cũng không cho rằng ngã có cảm thọ và tính cách của ngã có khả năng cảm thọ, và cũng không cho rằng ngã hoàn toàn không có cảm thọ. Người ấy do không chấp như vậy nên không còn thọ sanh ở thế gian này. Người ấy do không còn thọ sanh nên không còn phiền lụy, do không phiền lụy mà Bát-niết-bàn, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Này A-nan, đó gọi là tăng ngữ, do tăng ngữ có truyền thuyết, do truyền thuyết mà thi thiết là có, biết như vậy thì không còn gì để chấp thủ.
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo chánh giải thoát như vậy thì không có kiến chấp rằng Như Lai tồn tại, Như Lai không tồn tại, Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại, Như Lai cũng chẳng phải tồn tại cũng chẳng không tồn tại. Đó gọi là có một loại không chấp có ngã.
Này A-nan, thế nào là có một quan niệm hữu ngã được chủ trương?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ của pháp, pháp do Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn giảng dạy, con nay nghe rồi được biết ý nghĩa rộng rãi.
Phật dạy:
- Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm, Ta sẽ phân biệt cho thầy nghe ý nghĩa này!
Tôn giả A-nan vâng lời, lắng nghe.
Phật dạy:
- Này A-nan, hoặc trong một giới hạn sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, hoặc trong một giới hạn không phải là sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, nhưng trong một giới hạn sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương, hoặc trong một giới hạn không phải là sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, cũng không phải sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương, nhưng với giới hạn vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, hoặc không phải trong giới hạn sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, cũng không phải sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương, cũng không phải vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, nhưng trong giới hạn vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương.
Này A-nan, nếu có trường hợp căn cứ vào giới hạn sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại với sắc nhỏ hẹp này mà quan niệm ngã được chủ trương, và khi thân hoại mạng chung cũng nói như vậy, cũng thấy như vậy; nếu khi ngã tách ngoài sắc nhỏ hẹp này thì người ấy cũng suy niệm như vậy, tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế là có trường hợp căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, có trường hợp căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà kiến chấp về ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, nhưng căn cứ vào vô lượng sắc mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại với vô lượng sắc này mà quan niệm ngã được chủ trương, và khi thân hoại mạng chung cũng nói như vậy, cũng thấy như vậy; nếu khi ngã tách khỏi vô lượng sắc, người ấy cũng suy niệm như vậy, tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp căn cứ vào vô lượng sắc mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với vô lượng sắc mà kiến chấp về ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp, cũng không sắc vô lượng nhưng căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại, căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng nói như vậy, cũng thấy như vậy; nếu khi ngã rời khỏi vô sắc nhỏ hẹp, người ấy suy niệm như vậy, tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với vô sắc nhỏ hẹp mà kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp, cũng không sắc vô lượng, cũng không vô sắc nhỏ hẹp, nhưng căn cứ vào vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại với vô lượng vô sắc mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng nói như vậy, cũng thấy như vậy; nếu khi ngã rời khỏi vô lượng vô sắc, người ấy suy niệm như vậy, tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp căn cứ vào vô lượng vô sắc mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với vô lượng vô sắc mà kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, như vậy là có một loại quan niệm ngã được chủ trương.
Này A-nan, thế nào là có một loại quan niệm vô ngã được chủ trương?
Tôn giả A-nan bạch đức Thế Tôn:
- Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ của pháp, pháp do Thế Tôn, cúi mong Thế Tôn giảng pháp, con nay nghe rồi được biết ý nghĩa rộng rãi!
Phật dạy:
- Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm kỹ, Ta sẽ phân biệt cho thầy nghe ý nghĩa này!
Tôn giả A-nan vâng lời dạy, lắng nghe.
Phật dạy:
- Này A-nan, hoặc có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, cũng không căn cứ vào sắc vô lượng, cũng không căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp và cũng không căn cứ vào vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng không nói như vậy, cũng không thấy như vậy; nếu khi ngã rời khỏi sắc nhỏ hẹp, người ấy không suy niệm như vậy, cũng không tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp không căn cứ vào sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với không sắc nhỏ hẹp mà không kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại không căn cứ vào sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng không nói như vậy, cũng không thấy như vậy; nếu khi ngã rời sắc vô lượng, người ấy không suy niệm như vậy, cũng không tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp không căn cứ vào sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với không sắc vô lượng mà không kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại không căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng không nói như vậy, cũng không thấy như vậy; nếu khi ngã rời khỏi vô sắc nhỏ hẹp, người ấy không suy niệm như vậy, cũng không tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp không căn cứ vào vô sắc nhỏ hẹp mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với không vô sắc nhỏ hẹp mà không kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, nếu có trường hợp không căn cứ vào vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương thì người ấy trong hiện tại không căn cứ vào vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương, khi thân hoại mạng chung cũng không nói như vậy, cũng không thấy như vậy. Nếu khi ngã rời khỏi vô sắc vô lượng, người ấy không suy niệm như vậy, cũng không tư duy như vậy, như vậy. Này A-nan, như thế, có trường hợp không căn cứ vào vô sắc vô lượng mà quan niệm ngã được chủ trương. Như vậy, với vô sắc vô lượng mà không kiến chấp ngã bị chấp trước.
Này A-nan, đó gọi là có một loại quan niệm vô ngã được chủ trương.
Lại nữa, này A-nan, có bảy trú xứ của thức và hai xứ.
Thế nào là bảy trú xứ của thức? Chúng sanh hữu sắc với các loại thân khác nhau, các loại tưởng khác nhau, ấy là loài người và loài trời cõi dục; gọi đó là trú xứ thứ nhất của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh hữu sắc với các loại thân khác nhau, nhưng chỉ có một loại tưởng, ấy là Phạm thiên sơ sanh không yểu thọ; gọi đó là trú xứ thứ hai của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh hữu sắc với một loại thân, nhưng nhiều loại tưởng, ấy là Hoảng Dục thiên; gọi đó là trú xứ thứ ba của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh hữu sắc cùng một loại thân, cùng một loại tưởng, ấy là Biến Tịnh thiên; gọi đó là trú xứ thứ tư của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào Vô lượng không xứ, thành tựu an trú Vô lượng không xứ, ấy là Vô lượng không xứ thiên; gọi đó là trú xứ thứ năm của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, vào Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú Vô lượng thức xứ, ấy là Vô lượng thức xứ thiên; gọi đó là trú xứ thứ sáu của thức.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả Vô lượng thức tưởng, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú Vô sở hữu xứ, ấy là Vô sở hữu xứ thiên; gọi đó là trú xứ thứ bảy của thức.
Thế nào là có hai xứ?
Chúng sanh hữu sắc không có tưởng, không có thọ, ấy là Vô tưởng thiên; gọi đó là xứ thứ nhất.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, ấy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng thiên; gọi đó là xứ thứ hai.
Này A-nan, đối với trú xứ thứ nhất của thức, chúng sanh hữu sắc với các loại thân, với các loại tưởng, là loài người và loài trời cõi dục. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trú xứ ấy của thức, biết sự tập khởi của trú xứ của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ của thức kia, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ hai của thức, chúng sanh hữu sắc với các loại thân nhưng một loại tưởng, là Phạm thiên sơ sanh không yểu thọ. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trú xứ của thức, biết sự tập khởi của trú xứ của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ ba của thức, chúng sanh hữu sắc với một loại thân nhưng nhiều loại tưởng, ấy là Hoảng Dục thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trú xứ của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ tư của thức, chúng sanh hữu sắc với một loại thân, với một loại tưởng, ấy là Biến Tịnh thiên. Nếu có vị Tỳ-kheo biết như thật trú xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ năm của thức, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào Vô lượng không xứ, thành tựu an trú Vô lượng không xứ, ấy là Vô lượng không xứ thiên. Nếu có vị Tỳ-kheo biết như thật trú xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ sáu của thức, chúng sanh vô sắc vượt tất cả Vô lượng không xứ, vào Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú Vô lượng thức xứ, ấy là Vô lượng thức xứ thiên. Nếu có vị Tỳ-kheo biết như thật trú xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với trú xứ thứ bảy của thức, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả vô lượng thức tưởng, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú Vô sở hữu xứ, ấy là Vô sở hữu xứ thiên. Nếu có vị Tỳ-kheo biết như thật trú xứ của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trú xứ kia của thức, kế trước và trú nơi trú xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với xứ thứ nhất, chúng sanh hữu sắc không có tưởng, không có thọ, ấy là Vô tưởng thiên. Nếu có vị Tỳ-kheo biết như thật xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi xứ kia của thức, kế trước và trú nơi xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, đối với xứ thứ hai của thức, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, ấy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai họa, biết xuất yếu; thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi xứ kia của thức, kế trước và trú nơi xứ kia của thức chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo biết như thật bảy trú xứ của thức và hai xứ kia, tâm không nhiễm trước, được giải thoát thì gọi là Tỳ-kheo A-la-hán, được gọi là tuệ giải thoát.
Lại nữa, này A-nan, có tám giải thoát. Những gì là tám? Sắc quán sắc, đó là giải thoát thứ nhất. Lại nữa, bên trong không có sắc tưởng, ngoài quán sắc, đó là giải thoát thứ hai. Lại nữa, với tịnh giải thoát, tự thân chứng ngộ, thành tựu an trú, đó là giải thoát thứ ba. Lại nữa, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào Vô lượng không xứ, thành tựu an trú Vô lượng không xứ, đó là giải thoát thứ tư. Lại nữa, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, vào Vô lượng thức xứ, thành tựu an trú Vô lượng thức xứ, đó là giải thoát thứ năm. Lại nữa, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trú Vô sở hữu xứ, đó là giải thoát thứ sáu. Lại nữa, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy. Lại nữa, vượt qua tất cả Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, vào Tưởng thọ diệt giải thoát, tự thân chứng ngộ, thành tựu an trú, và tuệ quán biết rõ các lậu, đó là giải thoát thứ tám.
Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về bảy trú xứ của thức và hai xứ kia, tâm không nhiễm trước, được giải thoát; và với tám giải thoát này, thuận và nghịch mà tự thân chứng ngộ, thành tựu an trú, và cũng do tuệ quán mà diệt tận các lậu thì đó là Tỳ-kheo A-la-hán được gọi câu giải thoát.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.