Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

91. KINH CHÂU-NA VẤN KIẾN

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại Câu-xá-di, trong vườn Cù-sư-la.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Châu-na, vào lúc xế chiều, từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên và bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, trong thế giới này, các kiến chấp phát sanh và phát sanh, tức là các chủ trương có ngã, có chúng sanh, có nhân, có thọ, có mạng, có thế gian. Bạch đức Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để các kiến chấp này được tiêu diệt, được xả ly, và khiến cho các tà kiến khác không tiếp diễn, không thủ trước?

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo:

- Này Châu-na, trong thế giới này, các kiến chấp phát sanh và phát sanh, tức là các chủ trương có ngã, có chúng sanh, có nhân, có thọ, có mạng, có thế gian. Này Châu-na, nếu muốn các pháp diệt tận, không còn thì phải biết như vầy, thấy như vầy mới có thể khiến cho các kiến chấp này được tiêu diệt, được xả ly, và khiến cho các kiến chấp khác không tiếp diễn, không thủ trước. Đó là nên học pháp tiệm giảm.

Này Châu-na, trong Thánh Pháp, Luật, thế nào là tiệm giảm? Tỳ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã thực hành sự tiệm giảm.” Này Châu-na, trong Thánh Pháp, Luật không phải chỉ có sự tiệm giảm này.

Có bốn tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, hành giả từ đó khởi lên, rồi lại nhập trở lại; vị ấy nghĩ thế này: “Ta thực hành sự tiệm giảm.” Này Châu-na, trong Thánh Pháp, Luật không phải chỉ có sự tiệm giảm này.

Tỳ-kheo vượt khỏi mọi sắc tưởng, cho đến chứng đắc Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú, vị ấy nghĩ thế này: “Ta thực hành sự tiệm giảm.” Này Châu-na, trong Thánh Pháp, Luật không phải chỉ có sự tiệm giảm này.

Có bốn tịch tĩnh giải thoát, lìa sắc, chứng đắc vô sắc, hành giả từ đó khởi lên và sẽ nói cho người khác biết; vị ấy nghĩ thế này: “Ta thực hành sự tiệm giảm.”

Này Châu-na, trong Thánh Pháp, Luật không chỉ tiệm giảm này. Này Châuna, “người khác có ác dục, niệm dục, ta không ác dục, niệm dục” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác có hại ý, sân, ta không có hại ý, sân” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác có sát sanh, không cho mà lấy, phi Phạm hạnh, ta không có phi Phạm hạnh” nên học sự tiệm giảm. Này Châuna, “người khác có tham lam, não hại, thụy miên, quấn chặt, trạo cử, cống cao và có nghi hoặc, ta không có nghi hoặc” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác có sân kết, dua nịnh, lừa gạt, vô tàm, vô quý, ta có tàm, quý” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác có khinh mạn, ta không có khinh mạn” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác có tăng thượng mạn, ta không có tăng thượng mạn” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác không đa văn, ta có đa văn” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác không quán các thiện pháp, ta quán các thiện pháp” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác hành phi pháp, ác hạnh, ta hành đúng pháp, diệu hạnh” nên học sự tiệm giảm. Này Châu-na, “người khác nói láo, nói hai lưỡi, nói cộc cằn, nói thêu dệt, ác giới, ta không có ác giới” nên học sự tiệm giảm. Này Châuna, “người khác có bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định, lại có ác huệ, ta không có ác huệ” nên học sự tiệm giảm.

Này Châu-na, chỉ cần phát tâm, nghĩ và mong muốn học các thiện pháp mà còn được nhiều lợi ích, huống chi thân và khẩu thực hành thiện pháp! Này Châuna, “người khác có ác dục, niệm dục, ta không có ác dục, niệm dục”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có hại ý, sân, ta không có hại ý, sân”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có sát sanh, không cho mà lấy, phi Phạm hạnh, ta không phi Phạm hạnh”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có tham lam, não hại, thụy miên, quấn chặt, trạo cử, cống cao, lại có nghi hoặc, ta không nghi hoặc”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có sân kết, dua nịnh, lừa gạt, vô tàm, vô quý, ta có tàm, quý”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có khinh mạn, ta không có khinh mạn”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác có tăng thượng mạn, ta không có tăng thượng mạn”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác không đa văn, ta có đa văn”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác không quán các thiện pháp, ta quán các thiện pháp”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác hành phi pháp, ác hạnh, ta hành đúng pháp, diệu hạnh”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác nói láo, hai lưỡi, cộc cằn, thêu dệt, ác giới, ta không có ác giới”, hãy phát tâm. Này Châu-na, “người khác bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định lại có ác huệ, ta không có ác huệ”, hãy phát tâm.

Này Châu-na, ví như có con đường xấu và có con đường tốt đối lại; có bến đò xấu và có bến đò tốt đối lại. Cũng vậy, này Châu-na, ác dục có phi ác dục đối lại; hại ý, sân có không hại ý, không sân đối lại; sát sanh, không cho mà lấy, phi Phạm hạnh có Phạm hạnh đối lại; tham lam, não hại, thụy miên, trạo cử, cống cao, nghi hoặc có không nghi hoặc đối lại; sân kết, dua nịnh, lừa gạt, vô tàm, vô quý có tàm, quý đối lại; khinh mạn có không khinh mạn đối lại; tăng thượng mạn có không tăng thượng mạn đối lại; không đa văn có đa văn đối lại; không quán các thiện pháp có quán các thiện pháp đối lại; hành phi pháp, ác hạnh có hành đúng pháp, diệu hạnh đối lại; nói láo, hai lưỡi, cộc cằn, thêu dệt, ác giới có thiện giới đối lại; bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định, ác tuệ có thiện tuệ đối lại.

Này Châu-na, hoặc có pháp đen, có quả báo đen, dẫn đến chỗ ác; hoặc có pháp trắng, có quả báo trắng và được thăng tiến. Cũng như thế, này Châu-na, người có ác dục thì dùng phi ác dục mà đi lên; người có hại ý, sân thì dùng không có hại ý, không có sân mà đi lên; người sát sanh, lấy của không cho, phi Phạm hạnh thì dùng Phạm hạnh mà đi lên; người tham lam, não hại, thụy miên, trạo cử, cống cao, nghi hoặc thì dùng không nghi hoặc mà đi lên; người sân nhuế, dua nịnh, lừa gạt, vô tàm, vô quý thì dùng tàm, quý mà đi lên; người khinh mạn thì dùng không khinh mạn mà đi lên; người tăng thượng mạn thì dùng không tăng thượng mạn mà đi lên; người không đa văn thì dùng đa văn mà đi lên; người không quán các thiện pháp thì dùng quán các thiện pháp mà đi lên; người hành phi pháp, ác hạnh thì dùng sự thực hành đúng pháp, diệu hạnh mà đi lên; người nói láo, hai lưỡi, cộc cằn, thêu dệt, ác giới thì dùng thiện giới mà đi lên; người bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định, ác tuệ thì do thiện tuệ mà đi lên.

Này Châu-na, nếu có người không tự điều phục và người khác cũng không được điều phục mà muốn được điều phục thì sự kiện ấy không bao giờ có. Tự mình chìm đắm và người khác chìm đắm mà muốn vớt lên thì sự kiện ấy không bao giờ có. Tự mình không Bát-niết-bàn và người khác không được Bát-niết-bàn mà muốn được Bát-niết-bàn thì sự kiện ấy không bao giờ có. Này Châu-na, nếu có người tự điều phục được, người khác không điều phục được mà muốn điều phục thì sự kiện ấy có xảy ra. Tự mình không chìm đắm, người khác bị chìm đắm mà muốn vớt lên thì sự kiện ấy có xảy ra. Tự mình Bát-niết-bàn, người khác không Bát-niết-bàn mà khiến cho Bát-niết-bàn thì sự kiện ấy có xảy ra. Cũng như thế, này Châu-na, người ác dục thì do phi ác dục mà Bát-niết-bàn; người có hại ý, sân thì do không có hại ý, không có sân mà Bát-niết-bàn; người sát sanh, lấy của không cho, phi Phạm hạnh thì do Phạm hạnh mà Bát-niết-bàn; người tham lam, não hại, thụy miên, trạo cử, cống cao, nghi hoặc thì do không nghi hoặc mà Bát-niết-bàn; người sân kết, dua nịnh, lừa gạt, vô tàm, vô quý thì do tàm, quý mà Bát-niết-bàn; người kiêu mạn thì do không kiêu mạn mà Bát-niết-bàn; người tăng thượng mạn thì do không tăng thượng mạn mà Bát-niết-bàn; người không đa văn thì do đa văn mà Bátniết-bàn; người không quán các thiện pháp thì do quán các thiện pháp mà Bátniết-bàn; người hành phi pháp, ác hạnh thì do hành đúng pháp, diệu hạnh mà Bát-niết-bàn; người nói láo, hai lưỡi, cộc cằn, thêu dệt, ác giới thì do thiện giới mà Bát-niết-bàn; người bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định, ác tuệ thì do thiện tuệ mà Bát-niết-bàn.

Này Châu-na, đó là Ta đã nói cho thầy nghe về pháp tiệm giảm, đã nói pháp phát tâm, đã nói pháp đối trị, đã nói pháp tăng thượng, đã nói pháp Bátniết-bàn. Như bậc Tôn sư đối với đệ tử, khởi tâm đại từ, thương xót, thương tưởng, mong cầu cho đệ tử được phước lợi và thiện ích, mong cầu an ổn, khoái lạc; Ta đã làm như vậy, các thầy cũng nên tự mình làm, hãy đến nơi rừng vắng, núi sâu, dưới gốc cây, chỗ an tĩnh thanh nhàn, tĩnh tọa tư duy, đừng phóng dật, không ngừng tinh tấn, chớ để ân hận mai sau. Đó là lời khuyến cáo của Ta, lời huấn thị của Ta.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Đại Châu-na và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.