Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

89. KINH TỲ-KHEO THỈNH

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa thành Vương Xá, trong rừng Trúc Lâm, vườn Ca-lanđa, cùng với đại chúng Tỳ-kheo an cư mùa mưa.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo:

- Này chư Hiền, có Tỳ-kheo thỉnh cầu các Tỳ-kheo rằng: “Xin các Tôn giả nói với tôi, dạy dỗ tôi, khiển trách tôi, xin đừng làm khó tôi.” Vì sao? Này chư Hiền, như có một người quen nói ngang ngược, quen tánh nói ngang ngược, và do quen tánh nói ngang ngược này, khiến các vị Phạm hạnh không nói, không dạy dỗ, không khiển trách, trái lại làm khó người ấy.

Này chư Hiền, thế nào là tánh nói ngang ngược, mà nếu ai có quen tánh nói ngang ngược thì các vị Phạm hạnh không nói, không dạy dỗ, không khiển trách, trái lại làm khó người ấy? Này chư Hiền, ở đây, có người ác dục và nhớ nghĩ đến dục. Này chư Hiền, nếu là người có ác dục và nhớ nghĩ đến dục thì đó là có tánh nói ngang ngược. Cũng như thế, bị nhiễm, hành nhiễm, uất hận, dối láo, dua nịnh, xan tham, tật đố, vô tàm, vô quý, sân tệ, ác ý, nói lời phẫn nộ, mắng lại Tỳ-kheo khiển trách mình, mắng Tỳ-kheo khinh mạn mình, mắng Tỳ-kheo phát lồ, nói lảng ngoài đề để tránh né, che giấu phẫn nộ và ganh ghét, phừng phực, bằng hữu ác, đồng bọn ác, vong ân, không biết ân. Này chư Hiền, nếu có người vong ân, không biết ân thì đó là người có tánh nói ngang ngược. Này chư Hiền, đó là những tánh nói ngang ngược. Nếu ai quen tánh nói ngang ngược thì các vị Phạm hạnh không nói, không dạy dỗ, không khiển trách, trái lại làm khó người ấy.

Này chư Hiền, Tỳ-kheo hãy tự suy xét. Này chư Hiền: “Nếu ai có ác dục, niệm dục thì tôi không thương người đó và nếu tôi có ác dục, niệm dục thì người ấy cũng chẳng thương tôi.” Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy. Không hành ác dục, không niệm dục, nên học như vậy. Cũng như thế, ai bị nhiễm, hành nhiễm, phú tàng, uất hận, dối láo, dua nịnh, xan tham, tật đố, vô tàm, vô quý, sân tệ, ác ý, nói lời phẫn nộ, mắng lại Tỳ-kheo khiển trách mình, mắng Tỳ-kheo khinh mạn mình, mắng Tỳ-kheo phát lồ, nói lảng ngoài đề để tránh né, che giấu phẫn nộ, ganh ghét, phừng phực, bằng hữu ác, đồng bọn ác, vong ân, không biết ân. Này chư Hiền: “Nếu ai vong ân, không biết ân thì tôi không thương người ấy và nếu tôi vong ân, không biết ân thì người ấy cũng chẳng thương tôi.” Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy. Không thực hành sự vong ân, không biết ân, nên học như vậy.

Này chư Hiền, có Tỳ-kheo không thỉnh cầu các Tỳ-kheo rằng: “Xin các ngài nói với tôi, dạy dỗ tôi, khiển trách tôi, đừng làm khó tôi.” Vì sao? Này chư Hiền, hoặc có một người dễ bảo, đầy đủ đức tánh dễ bảo, và do đầy đủ bản tánh dễ bảo nên các vị Phạm hạnh khéo bảo, khéo dạy dỗ, khéo khiển trách và không làm khó người đó.

Này chư Hiền, thế nào là bản tánh dễ bảo? Nếu có người đầy đủ đức tánh dễ bảo thì các vị Phạm hạnh khéo bảo, khéo dạy dỗ, khéo khiển trách và không làm khó người đó. Này chư Hiền, hoặc có người không ác dục, không niệm dục. Này chư Hiền, nếu có người không ác dục, không niệm dục thì đó là bản tánh dễ bảo. Cũng như thế, không bị nhiễm, không hành nhiễm, không che giấu, uất hận, không dối láo và dua nịnh, không xan tham và tật đố, không vô tàm, vô quý, không sân tệ, ác ý, không nói lời phẫn nộ, không mắng Tỳ-kheo khiển trách mình, không mắng lại Tỳ-kheo khinh mạn mình, không mắng Tỳ-kheo phát lồ, không nói lảng ngoài đề để tránh né, không che giấu, không phẫn nộ, không ganh ghét, không phừng phực, không bằng hữu ác, đồng bọn ác, không vong ân, biết ân. Này chư Hiền, nếu ai không vong ân, biết ân thì đó là có bản tánh dễ bảo. Này chư Hiền, đó là những bản tánh dễ bảo. Nếu ai đầy đủ đức tánh dễ bảo thì các vị Phạm hạnh khéo bảo, khéo dạy dỗ, khéo khiển trách và không làm khó người đó.

Này chư Hiền, Tỳ-kheo nên tự suy xét. Này chư Hiền: “Nếu có người không ác dục, không niệm dục thì tôi thương người đó và nếu tôi không ác dục, không niệm dục thì người đó cũng thương tôi.” Tỳ-kheo nên quán sát như vậy. Không hành ác dục, không niệm dục, nên học như vậy. Cũng như thế, không bị nhiễm và hành nhiễm, không che giấu và uất hận, không dối láo, không dua nịnh, không xan tham và tật đố, không vô tàm và vô quý, không sân tệ, ác ý, không nói lời phẫn nộ, không mắng lại Tỳ-kheo khiển trách mình, không mắng Tỳ-kheo khinh mạn mình, không mắng Tỳ-kheo phát lồ, không nói lảng ngoài đề để tránh né, không che giấu, không phẫn nộ, không ganh ghét, không phừng phực, không bằng hữu ác, đồng bọn ác, không vong ân, biết ân. Này chư Hiền: “Nếu có người không vong ân mà biết ân thì tôi thương người đó và nếu tôi không vong ân và biết ân thì người đó cũng thương tôi.” Tỳ-kheo nên quán sát như vậy. Không vong ân mà biết ân, nên học như vậy.

Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo quán sát như vầy: “Ta có ác dục, niệm dục hay không có ác dục, niệm dục” thì chắc chắn có nhiều lợi ích. Này chư Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình có ác dục, niệm dục thì không thể hân hoan, do đó mong cầu đoạn trừ dục. Này chư Hiền, nếu lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết mình không có ác dục, niệm dục thì được hân hoan: “Tự ta thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý cho nên hân hoan.”

Này chư Hiền, như người có mắt, lấy gương tự soi thì thấy được mặt mình là sạch hay dơ. Này chư Hiền, nếu người ấy thấy mặt mình có vết dơ thì không hân hoan và mong muốn rửa sạch. Này chư Hiền, nếu người ấy thấy mặt mình không có vết dơ thì được hân hoan: “Mặt ta sạch sẽ nên ta hân hoan.” Này chư Hiền, cũng như vậy, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình có ác dục, niệm dục thì không hân hoan và mong cầu đoạn trừ dục. Này chư Hiền, nếu lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình không có ác dục, niệm dục thì hân hoan: “Ta tự thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý nên ta hân hoan.” Cũng như thế: “Ta bị nhiễm, hành nhiễm, hay không bị nhiễm và hành nhiễm? Ta có che giấu và uất hận hay không có che giấu và uất hận? Ta có dối láo hay không dối láo? Ta có dua nịnh hay không dua nịnh? Ta có tham hay không tham? Ta có tật đố hay không có tật đố? Ta có vô tàm hay không vô tàm? Ta có vô quý hay không vô quý? Ta có sân tệ, ác ý hay không sân tệ, ác ý? Ta có nói lời phẫn nộ hay không nói lời phẫn nộ? Ta có mắng lại Tỳ-kheo khiển trách hay không mắng lại Tỳkheo khiển trách? Ta có mắng Tỳ-kheo khinh mạn hay không mắng Tỳ-kheo khinh mạn? Ta có mắng Tỳ-kheo phát lồ hay không mắng Tỳ-kheo phát lồ? Ta có nói lảng ngoài đề để tránh né hay không nói lảng ngoài đề để tránh né? Ta có che giấu, uất hận, ganh ghét, phừng phực hay không có phú tàng, phẫn nộ, ganh ghét, phừng phực? Ta có bằng hữu, đồng bọn ác hay không có bằng hữu, đồng bọn ác? Ta có vong ân, không biết ân hay không có vong ân, không biết ân?” Này chư Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình có vong ân, không biết ân thì không hân hoan và mong muốn đoạn trừ. Này chư Hiền, nếu lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình không có vong ân, biết ân thì được hân hoan: “Ta tự thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý, nên ta hân hoan.”

Này chư Hiền, như người có mắt, lấy gương tự soi thì thấy được mặt mình là sạch hay dơ. Này chư Hiền, nếu người ấy thấy mặt mình có vết dơ thì không hân hoan và mong muốn rửa sạch. Này chư Hiền, nếu người ấy thấy mặt mình không có vết dơ thì được hân hoan: “Mặt ta sạch sẽ nên ta hân hoan.” Này chư Hiền, cũng vậy, nếu khi Tỳ-kheo quán sát và biết được mình có vong ân, không biết ân thì không hân hoan và mong muốn đoạn trừ. Này chư Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát và biết được mình không có vong ân, biết ân thì được hân hoan: “Ta tự thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý nên ta hân hoan.” Do hân hoan nên được hoan hỷ; nhân hoan hỷ nên thân được an tĩnh; do thân được an tĩnh nên cảm thọ lạc; do được cảm thọ lạc nên được định tâm. Này chư Hiền, đa văn Thánh đệ tử do định tâm nên thấy như thật, biết như thật; do thấy như thật, biết như thật nên được yểm ly; do yểm ly nên được vô dục; do vô dục nên được kiến giải thoát; do giải thoát mà được tri kiến giải thoát, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều đáng làm đã làm xong, không còn tái sanh.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.