Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

88. KINH CẦU PHÁP

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa nước Câu-tát-la cùng đại chúng Tỳ-kheo đi đến phía Bắc làng Ngũ-ta-la, trong rừng Thi-nhiếp-hòa với hàng đại đệ tử Trưởng lão Thượng tôn danh đức như Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật, Tôn giả Lệ-việt, Tôn giả A-nan và các đại đệ tử Trưởng lão Thượng tôn danh đức khác ngang hàng như vậy cũng có mặt tại làng Ngũ-ta-la; tất cả đều ở bên cạnh ngôi nhà lá của Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy nên thực hành sự cầu pháp, đừng thực hành sự cầu ẩm thực. Vì sao? Vì Ta thương tưởng các đệ tử, muốn các đệ tử nên thực hành sự cầu pháp chứ không thực hành sự cầu ẩm thực. Nếu các thầy thực hành sự cầu ẩm thực, không thực hành sự cầu pháp thì không những các thầy tự xấu xa mà Ta cũng không được danh dự. Nếu các thầy thực hành sự cầu pháp, chứ không thực hành sự cầu ẩm thực thì không những các thầy đã tự tốt đẹp mà Ta cũng được danh dự.

Thế nào là các đệ tử vì cầu ẩm thực mà nương theo Phật tu hành chứ không phải vì cầu pháp? Sau khi Ta ăn no, bữa ăn đã xong, còn lại đồ ăn dư; sau đó có hai vị Tỳ-kheo đến, đói khát, sức lực hao mòn, Ta nói với họ rằng: “Sau khi Ta ăn no, bữa ăn đã xong, còn lại đồ ăn dư, các thầy muốn ăn thì lấy mà ăn, nếu các thầy không lấy thì Ta sẽ mang đổ nơi đất sạch, hoặc đổ trong nước không có trùng.” Trong hai vị ấy, vị Tỳ-kheo thứ nhất suy nghĩ như vầy: “Đức Thế Tôn ăn rồi, bữa ăn đã xong, còn lại đồ ăn dư, nếu ta không lấy, tất nhiên đức Thế Tôn sẽ mang đổ nơi đất sạch, hoặc trong nước không có trùng, vậy ta hãy lấy mà ăn.” Vị Tỳ-kheo ấy liền lấy mà ăn, ăn xong, tuy được một ngày một đêm an ổn, khoái lạc, nhưng vị Tỳ-kheo ấy nhận lấy đồ ăn dư đó nên không vừa ý Phật. Vì sao? Vì Tỳ-kheo ấy nhận lấy đồ ăn đó nên không thể thiểu dục, không thể tri túc, không nhàm chán, không thể sống dễ dãi, không thể thỏa mãn, không thể biết thời, không biết tiết độ, không thể tinh tấn, không thể tĩnh tọa, không thể có tịnh hạnh, không thể sống viễn ly, không được nhất tâm, không được tinh cần, cũng không thể chứng đắc Niết-bàn. Vì vậy, do Tỳ-kheo ấy nhận lấy đồ ăn dư nên đức Phật không vừa ý. Như thế gọi là các đệ tử vì cầu ẩm thực mà nương theo Phật tu hành chứ không phải vì cầu pháp.

Thế nào là các đệ tử thực hành sự cầu pháp chứ không thực hành cầu ẩm thực? Trong hai vị ấy, vị Tỳ-kheo thứ hai suy nghĩ như vầy: “Đức Thế Tôn ăn rồi, bữa ăn đã xong, còn lại đồ ăn dư, nếu ta không lấy thì đức Thế Tôn tất nhiên sẽ mang đổ nơi đất sạch, hoặc trong nước không có trùng. Nhưng đức Thế Tôn có dạy rằng: ‘Điều thấp kém nhất trong việc ăn uống là ăn đồ ăn dư.’ Vậy ta không nên nhận lấy đồ ăn đó.” Nghĩ như thế rồi vị ấy không nhận lấy đồ ăn. Tỳ-kheo kia không nhận lấy đồ ăn đó, tuy suốt một ngày một đêm khổ sở, không được an ổn, nhưng vì Tỳ-kheo ấy không nhận lấy đồ ăn đó nên đức Phật vừa lòng. Vì sao? Vì Tỳ-kheo ấy không nhận lấy đồ ăn dư nên được thiểu dục, được tri túc, được sống dễ dãi, dễ thỏa mãn, biết thời, có tiết độ, có tinh tấn, có thể tĩnh tọa, có tịnh hạnh, có thể sống viễn ly, được nhất tâm, được tinh cần và cũng có thể chứng đắc Niết-bàn. Vì vậy, do Tỳ-kheo ấy không nhận lấy đồ ăn này mà được vừa lòng Phật. Như thế gọi là các đệ tử vì cầu pháp mà nương theo Phật tu hành chứ không phải vì cầu ẩm thực.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các đệ tử:

- Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử hàng trưởng thượng của vị ấy không thích đời sống viễn ly thì Pháp, Luật đó không có ích gì cho mọi người, không mang lại an lạc cho mọi người, không phải là vì thương xót thế gian, cũng không phải vì mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử bậc trung và bậc hạ của vị ấy không thích đời sống viễn ly thì Pháp, Luật đó không ích gì cho mọi người, không mang lại an lạc cho mọi người, không phải là vì thương xót thế gian, cũng không phải vì mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử hàng trưởng thượng của vị ấy cũng thích đời sống viễn ly thì Pháp, Luật đó có ích cho mọi người, mang lại an lạc cho mọi người, là vì thương xót thế gian, mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử bậc trung và bậc hạ của vị ấy cũng thích đời sống viễn ly thì Pháp, Luật đó có ích cho mọi người, mang lại an lạc cho mọi người, là vì thương xót thế gian, mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng hiện diện trong chúng nên đức Thế Tôn bảo Tôn giả:

- Này Xá-lợi-phất, thầy hãy nói pháp như pháp cho các Tỳ-kheo nghe. Ta bị đau lưng, nay Ta muốn nghỉ một lát!

Tôn giả Xá-lợi-phất liền vâng lãnh lời Phật:

- Kính vâng, bạch Thế Tôn!

Rồi đức Thế Tôn gấp tư y Ưu-đa-la-tăng trải lên giường, cuộn y Tăng-giàlê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, khởi quang minh tưởng, chánh niệm, chánh trí và chuyên niệm về dục khởi tưởng.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với các Tỳ- kheo:

– Này chư Hiền, nên biết, đức Thế Tôn vừa nói pháp sơ lược rằng nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử hàng trưởng thượng của vị ấy không thích an trú viễn ly thì Pháp, Luật đó không có ích gì cho mọi người, không mang lại an lạc cho mọi người, không phải là vì thương xót thế gian, không phải là mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử bậc trung và bậc hạ của vị ấy không thích an trú viễn ly thì Pháp, Luật đó không có ích gì cho mọi người, không mang lại an lạc cho mọi người, không phải là vì thương xót thế gian, cũng không phải mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly và đệ tử hàng trưởng thượng của vị ấy cũng thích an trú viễn ly thì Pháp, Luật đó có ích cho mọi người, mang lại an lạc cho mọi người, là vì thương xót thế gian, mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử bậc trung và bậc hạ của vị ấy cũng thích an trú viễn ly thì Pháp, Luật đó có ích cho mọi người, mang lại an lạc cho mọi người, là vì thương xót thế gian, mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc cho loài trời, loài người.

Nhưng đức Thế Tôn nói pháp này hết sức tóm tắt, các thầy hiểu nghĩa đó như thế nào và phân biệt rộng rãi như thế nào?

Bấy giờ, trong chúng có Tỳ-kheo nói như thế này:

- Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, nếu các Trưởng lão Thượng tôn tuyên bố rằng: “Ta đã được Trí cứu cánh, biết một cách như thật rằng sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa” và các vị Phạm hạnh nghe vị Tỳ-kheo tự tuyên bố: “Ta đã được Trí cứu cánh” thì họ rất hoan hỷ.

Lại có Tỳ-kheo nói như thế này:

- Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, nếu có đệ tử bậc trung, bậc hạ mong cầu Niếtbàn vô thượng, và các vị Phạm hạnh thấy vị Tỳ-kheo kia đã thực hành theo nên họ được hoan hỷ.

Các Tỳ-kheo ấy giải thích ý nghĩa đó như vậy, nhưng không làm hài lòng Tôn giả Xá-lợi-phất.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói với các Tỳ-kheo ấy rằng:

- Này chư Hiền, hãy lắng nghe, tôi sẽ giải thích cho các Hiền giả!

Này chư Hiền, nếu một bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà hàng đệ tử trưởng thượng của vị ấy không thích an trú viễn ly thì người đệ tử hàng trưởng thượng ấy có ba điều đáng chê. Những gì là ba? Tôn sư thích an trú viễn ly mà đệ tử hàng trưởng thượng không học theo hạnh xả ly thì những đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Nếu Tôn sư dạy những pháp phải đoạn trừ mà đệ tử trưởng thượng không đoạn trừ pháp ấy thì những vị đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Với những điều có thể thủ chứng mà đệ tử trưởng thượng lại từ bỏ phương tiện thì những vị đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử trưởng thượng của vị ấy không thích an trú viễn ly thì những người đệ tử ấy có ba điều đáng chê trách đó.

Này chư Hiền, nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử bậc trung và hạ không thích an trú viễn ly thì những đệ tử trung và hạ ấy có ba điều đáng chê. Những gì là ba? Tôn sư thích an trú viễn ly mà đệ tử trung và hạ không học theo hạnh xả ly thì những đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Nếu Tôn sư dạy những pháp phải đoạn trừ mà đệ tử trung và hạ không đoạn trừ những pháp ấy thì những đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Với những điều có thể thủ chứng mà đệ tử trung và hạ lại từ bỏ phương tiện thì những đệ tử ấy vì vậy mà đáng chê. Nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly mà đệ tử trung và hạ không thích an trú viễn ly thì những đệ tử ấy có ba điều đáng chê đó.

Này chư Hiền, nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly và đệ tử trưởng thượng của vị ấy cũng thích an trú viễn ly thì đệ tử trưởng thượng ấy có ba điều đáng tán thưởng. Những gì là ba? Tôn sư thích an trú viễn ly và đệ tử trưởng thượng cũng học theo hạnh xả ly thì những đệ tử ấy vì vậy mà đáng được tán thưởng. Nếu Tôn sư dạy những pháp phải đoạn trừ và đệ tử trưởng thượng đoạn trừ những pháp ấy thì những vị đệ tử trưởng thượng vì vậy mà đáng tán thưởng. Với những điều có thể thủ chứng thì đệ tử trưởng thượng tinh tấn, cầu học, không bỏ phương tiện thì những vị đệ tử này đáng được tán thưởng. Nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly và đệ tử trưởng thượng cũng thích an trú viễn ly thì những đệ tử ấy có ba điều đáng tán thưởng đó.

Này chư Hiền, nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly và đệ tử trung và hạ cũng thích an trú viễn ly thì những đệ tử ấy có ba điều đáng tán thưởng. Những gì là ba? Tôn sư thích an trú viễn ly và đệ tử trung và hạ cũng thích đời sống xả ly thì những đệ tử ấy vì vậy được tán thưởng. Nếu Tôn sư dạy những pháp phải đoạn trừ và đệ tử trung và hạ đoạn trừ những pháp ấy thì những đệ tử ấy vì vậy được tán thưởng. Với những điều có thể thủ chứng thì đệ tử trung và hạ tinh tấn, cầu học, không bỏ phương tiện thì những đệ tử này đáng được tán thưởng. Nếu bậc Tôn sư có Pháp, Luật, thích an trú viễn ly và đệ tử trung và hạ cũng thích đời sống xả ly thì những đệ tử ấy có ba điều đáng tán thưởng đó.

Tôn giả Xá-lợi-phất lại nói với các thầy Tỳ-kheo:

- Này chư Hiền, có con đường giữa, nhờ đó có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn. Này chư Hiền, thế nào là có con đường giữa, có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn? Này chư Hiền, niệm tham dục là ác pháp, ghét bỏ niệm tham dục cũng là ác pháp. Người ấy đoạn trừ niệm tham dục và cũng đoạn trừ sự ghét bỏ niệm tham dục. Cũng vậy, sân nhuế, oán hận, cừu thù, bỏn xẻn, ganh tị, dối trá, vô tàm, vô quý, mạn, tối thượng mạn, cống cao, phóng dật, hào quý, tắng tránh. Này chư Hiền, tham cũng là pháp ác mà chấp trước cũng là pháp ác. Người ấy đoạn trừ tham và cũng đoạn trừ sự chấp trước. Này chư Hiền, đó là có con đường giữa, có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn.

Này chư Hiền, lại có con đường giữa khác, có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn. Này chư Hiền, thế nào là có con đường giữa khác, có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn? Đó là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến đến chánh định, ấy là tám. Này chư Hiền, đó là có con đường giữa khác, có thể được tâm trú, được tịnh, được an lạc, thuận pháp, thứ pháp, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn đã qua cơn đau và được an ổn, từ chỗ nằm trở dậy, ngồi kiết-già, Ngài tán thán Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất nói pháp như pháp cho các Tỳ-kheo nghe. Này Xá-lợi-phất, từ nay về sau, thầy hãy nói pháp như pháp cho các Tỳkheo nghe nữa. Này Xá-lợi-phất, thầy nên luôn luôn nói pháp như pháp cho các Tỳ-kheo nghe.

Rồi đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

- Các thầy phải cùng nhau lãnh thọ pháp như pháp, hãy tụng đọc, tu tập và giữ gìn. Vì sao? Vì pháp như pháp này có pháp, có nghĩa, là căn bản Phạm hạnh, được trí thông, được giác ngộ và chứng đắc Niết-bàn. Các thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo thì phải khéo léo thọ trì pháp như pháp này.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.