Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật đến nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan, vào lúc xế trưa, từ chỗ ngồi tĩnh tọa đứng dậy, dẫn các Tỳ-kheo niên thiếu đi đến chỗ Phật, cúi lạy chân Phật, rồi ngồi qua một bên. Các Tỳ-kheo niên thiếu cũng cúi lạy chân Phật, rồi ngồi qua một bên.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, với các Tỳ-kheo niên thiếu này, con phải quở trách như thế nào, dạy dỗ như thế nào, thuyết pháp cho họ nghe như thế nào?
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, thầy hãy nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng thời, bạch Thiện Thệ, nay thật là đúng thời! Nếu Thế Tôn nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì con và các Tỳ-kheo niên thiếu sau khi nghe Thế Tôn nói, sẽ khéo léo thọ trì.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, các thầy hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm, Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho thầy và các Tỳ-kheo niên thiếu nghe.
Tôn giả A-nan thọ giáo, lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm thủ uẩn: Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn. Này A-nan, năm thủ uẩn này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm thủ uẩn này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu nội xứ: Nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ. Này A-nan, sáu nội xứ này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu nội xứ này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu ngoại xứ: Sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc và pháp xứ. Này A-nan, sáu ngoại xứ này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu ngoại xứ này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu thức thân: Nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức. Này A-nan, sáu thức thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu thức thân này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu xúc thân: Nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xúc. Này A-nan, sáu xúc thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu xúc thân này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu thọ thân: Nhãn thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thọ. Này A-nan, sáu thọ thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu thọ thân này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu tưởng thân: Nhãn tưởng, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý tưởng. Này A-nan, sáu tưởng thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu sáu tưởng thân này thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu tư thân: Nhãn tư, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý tư. Này A-nan, sáu tư thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy sáu tư thân này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu ái thân: Nhãn ái, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý ái. Này A-nan, sáu ái thân này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy sáu ái thân này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về sáu giới: Địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới. Này A-nan, sáu giới này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy sáu giới này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp: Nếu cái này có thì cái kia có, nếu cái này không có thì cái kia không có, nếu cái này sanh thì cái kia sanh, nếu cái này diệt thì cái kia diệt. Duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục xứ, duyên lục xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có lão tử. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục xứ diệt, lục xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử diệt. Này A-nan, nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói, dạy nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy về bốn niệm xứ: Quán thân như thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp như pháp. Này A-nan, bốn niệm xứ này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn niệm xứ này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn chánh đoạn: Tỳ-kheo đối với pháp ác, bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi tâm mong cầu, nỗ lực tinh tấn, sách lệ và tâm kiên trì. Đối với các pháp ác, bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát sanh nên khởi tâm mong cầu, nỗ lực tinh tấn, sách lệ và tâm kiên trì. Đối với các pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi tâm mong cầu, nỗ lực tinh tấn, sách lệ và tâm kiên trì. Đối với pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ, tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn, cụ túc nên khởi tâm mong cầu, nỗ lực tinh tấn, sách lệ và tâm kiên trì. Này A-nan, bốn chánh đoạn này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn chánh đoạn này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn như ý túc: Tỳ-kheo thành tựu được dục định, thiêu đốt các hành, tu tập như ý túc, nương vào vô dục, nương vào viễn ly, nương vào diệt, nguyện đến phi phẩm. Tinh tấn định, tâm định cũng như vậy. Thành tựu quán định, thiêu đốt các hành, tu tập như ý túc, nương vào vô dục, nương vào viễn ly, nương vào diệt, nguyện đến phi phẩm. Này A-nan, bốn như ý túc này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy dạy bốn như ý túc này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn thiền: Tỳ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Này A-nan, bốn thiền này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn thiền này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn Thánh đế: Khổ Thánh đế, tập Thánh đế, diệt Thánh đế và đạo Thánh đế. Này A-nan, bốn Thánh đế này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn Thánh đế này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn tưởng: Tỳ-kheo có tiểu tưởng, có đại tưởng, có vô lượng tưởng, có vô sở hữu tưởng. Này A-nan, bốn tưởng này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn tưởng này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn vô lượng: Tỳ-kheo, tâm đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú, cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới, biến khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thời gian, thành tựu an trú. Bi và hỷ cũng vậy. Tâm đi đôi với xả, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Này A-nan, bốn vô lượng này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy dạy bốn vô lượng này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn vô sắc: Tỳ-kheo đoạn trừ tất cả sắc tưởng, cho đến chứng đắc Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú. Này A-nan, bốn vô sắc này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn vô sắc này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn thánh chủng: Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni nhận được cái y thô xấu mà biết chỉ túc, không phải vì y áo mà mong thỏa mãn ý mình; nếu chưa được y thì không u uất, không khóc than, không đấm ngực, không si dại; nếu đã được y thì không nhiễm, không trước, không ham muốn, không tham lam, không cất giấu, không tích trữ; khi dùng y thì thấy rõ tai họa và biết sự xuất ly, được sự lợi như vậy vẫn không giải đãi, mà có chánh trí. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trú nơi cổ tích thánh chủng. Về ẩm thực và trụ xứ cũng như vậy, vị ấy mong muốn đoạn trừ, vui thích đoạn trừ, mong muốn tu, vui thích tu. Vị ấy nhân muốn đoạn, vui đoạn, muốn tu, vui tu nên không khen mình, không khinh người, được sự lợi như vậy cũng không giải đãi, nhưng chánh trí. Đó gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trú nơi cổ tích thánh chủng. Này A-nan, bốn thánh chủng này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn thánh chủng này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bốn quả Sa-môn: Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, tối thượng là A-la-hán. Này A-nan, bốn quả Samôn này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bốn quả Sa-môn này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm thục giải thoát tưởng: Quán tưởng về vô thường, quán tưởng vì vô thường cho nên khổ, quán tưởng vì khổ cho nên vô ngã, quán tưởng bất tịnh ố lộ, quán tưởng hết thảy thế gian không có gì đáng vui. Này A-nan, năm thục giải thoát tưởng này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy năm thục giải thoát tưởng này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm giải thoát xứ, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chưa giải thoát thì nhờ ở đây mà tâm được giải thoát, nếu chưa tận trừ các lậu thì sẽ được tận trừ hoàn toàn, nếu chưa chứng đắc vô thượng Niết-bàn thì sẽ chứng đắc vô thượng Niết-bàn. Thế nào là năm? Này A-nan, Thế Tôn thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; các bậc trí Phạm hạnh cũng thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe. Này A-nan, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; các bậc trí Phạm hạnh cũng thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; họ nghe pháp rồi, thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa và do sự thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa đó nên được hoan duyệt; nhân hoan duyệt mà được hoan hỷ; nhân hoan hỷ mà được thân khinh an; do thân khinh an nên được cảm thọ; do cảm thọ lạc nên được tâm định. Này A-nan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhờ tâm định nên được thấy như thật, biết như thật; do thấy như thật, biết như thật nên phát sanh sự nhàm chán; do nhàm chán nên được vô dục; do vô dục nên được giải thoát; do giải thoát mà biết là mình giải thoát, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.” Này A-nan, đó là giải thoát xứ thứ nhất. Nhân đó mà nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tâm chưa được giải thoát thì được giải thoát, chưa tận trừ các lậu thì được tận trừ hoàn toàn, chưa chứng đắc vô thượng Niết-bàn thì chứng đắc vô thượng Niết-bàn.
Lại nữa, này A-nan, nếu trong trường hợp Thế Tôn không có thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; các bậc trí Phạm hạnh cũng không thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe thì họ y theo những điều đã nghe, đã tụng tập và đọc tụng rộng rãi. Nếu không đọc tụng rộng rãi những điều đã nghe, đã tụng đọc thì họ chỉ tùy theo điều đã nghe, đã tụng tập, nói lại rộng rãi cho người khác nghe. Nếu không nói rộng rãi cho người khác nghe những điều đã nghe, đã tụng tập thì họ chỉ tùy theo điều đã nghe, đã tụng tập mà tư duy, phân biệt. Nếu không tư duy, phân biệt những điều đã nghe, đã tụng tập thì họ chỉ thọ trì các tướng tam-muội. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni khéo thọ trì các tướng tam muội thì thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa; do thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa nên được hoan duyệt; do hoan duyệt nên hoan hỷ; do hoan hỷ nên thân được khinh an; do thân khinh an nên được cảm thọ lạc; do cảm thọ lạc nên được tâm định. Này A-nan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhờ tâm định nên được thấy như thật, biết như thật; do thấy như thật, biết như thật nên phát sanh nhàm chán; do nhàm chán nên được vô dục; do vô dục nên được giải thoát; do giải thoát mà biết là mình đã giải thoát, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều đáng làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.” Này A-nan, đó là giải thoát xứ thứ năm. Nhân đó, mà nếu Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni chưa được giải thoát thì được tâm giải thoát, chưa dứt sạch các lậu thì được dứt sạch trọn vẹn, chưa chứng đắc vô thượng Niết-bàn thì chứng đắc vô thượng Niết-bàn. Này A-nan, năm giải thoát xứ này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy năm giải thoát xứ này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm căn: Tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ căn. Này A-nan, năm căn này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy năm căn này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm lực: Tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ lực. Này A-nan, năm lực này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳkheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy năm lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về năm xuất yếu giới. Những gì là năm? Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử quán sát dục một cách cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát dục cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo dục, không vui say dục, không gần gũi với dục, không quyết định nơi dục. Khi tâm dục vừa sanh tức thì bị cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trụ nơi dục, chán ghét, nhàm tởm dục.
Này A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, quán sát dục cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát dục cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo dục, không vui say trong dục, không gần gũi với dục, không quyết định nơi dục. Khi tâm dục vừa sanh tức thì bị cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Vị ấy vứt bỏ, không trụ nơi dục, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự dục. Vị ấy quán sát vô dục, tâm hướng về vô dục, vui say vô dục, gần gũi vô dục, quyết định nơi vô dục, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc; viễn ly tất cả dục, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do dục mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh các cảm thọ ấy nữa. Đó là các cảm thọ sanh ra bởi dục. Đó là sự xuất ly khỏi dục. Này A-nan, đó là xuất yếu giới thứ nhất.
Lại nữa, này A-nan, đa văn Thánh đệ tử quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo sân nhuế, không vui say trong sân nhuế, không gần gũi sân nhuế, không quyết định nơi sân nhuế. Khi tâm sân nhuế vừa sanh thì tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trú nơi sân nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sân nhuế. Này A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo sân nhuế, không vui say sân nhuế, không quyết định nơi sân nhuế. Khi tâm sân nhuế vừa sanh thì tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không an trú nơi sân nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sân nhuế. Vị ấy quán sát vô nhuế, tâm hướng về vô nhuế, vui say vô nhuế, gần gũi vô nhuế, quyết định nơi vô nhuế, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc; viễn ly dục nhuế, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do sân nhuế mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa. Đó là cảm thọ sanh ra bởi nhuế. Đó là sự xuất ly khỏi nhuế. Này A-nan, đó là xuất yếu giới thứ hai.
Lại nữa, này A-nan, đa văn Thánh đệ tử quán sát một cách cực kỳ mãnh liệt não hại. Vị ấy do quán sát não hại cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo hại, không vui say hại, không gần gũi với hại, không quyết định nơi hại. Khi tâm hại vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trụ nơi hại, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự não hại. Này A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, quán sát não hại cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát não hại cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo hại, không vui say hại, không gần gũi với hại, không quyết định nơi hại. Khi tâm hại vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không an trú nơi hại, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự hại. Vị ấy quán sát vô hại, tâm hướng về vô hại, vui say vô hại, gần gũi vô hại, quyết định nơi vô hại, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc; viễn ly dục hại, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do hại mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa. Đó là cảm thọ sanh ra bởi hại. Đó là sự xuất ly khỏi hại. Này A-nan, đó là xuất yếu giới thứ ba.
Lại nữa, A-nan, đa văn Thánh đệ tử quán sát sắc cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát sắc cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo sắc, không vui say trong sắc, không gần gũi với sắc, không quyết định nơi sắc. Khi tâm sắc vừa sanh tức thì bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trụ nơi sắc, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sắc. Này A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, quán sát sắc cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát sắc cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo sắc, không vui say với sắc, không gần gũi với sắc, không quyết định nơi sắc. Khi tâm sắc vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không an trú nơi sắc, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sắc. Vị ấy quán sát vô sắc, tâm hướng về vô sắc, vui say vô sắc, gần gũi vô sắc, quyết định nơi vô sắc, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc; viễn ly dục sắc, viễn ly các lậu và các phiền nhọc, ưu sầu do sắc mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa. Đó là cảm thọ sanh ra bởi sắc. Đó là sự xuất ly khỏi sắc. Này A-nan, đó là sự xuất yếu giới thứ tư.
Lại nữa, này A-nan, đa văn Thánh đệ tử hết sức thận trọng, khéo léo quán sát tự thân một cách cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát tự thân cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo tự thân, không vui say trong tự thân, không gần gũi với tự thân, không quyết định nơi thân. Khi tự thân vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trụ nơi thân, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự tự thân. Này A-nan, giống như lông và gân của con gà đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn lại, không nở rộng ra được. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, quán sát tự thân cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do quán sát tự thân cực kỳ mãnh liệt nên tâm không hướng theo thân, không vui say thân, không quyết định nơi thân; tự thân vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn, không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không an trú nơi thân, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự thân. Vị ấy quán sát vô thân, tâm hướng về vô thân, vui say vô thân, gần gũi vô thân, quyết định vô thân, tâm không chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc; viễn ly dục thân, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do thân mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa. Đó là cảm thọ sanh ra bởi thân. Đó là sự xuất ly khỏi thân. Này A-nan, đó là xuất yếu giới thứ năm.
Này A-nan, năm xuất yếu giới này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy năm xuất yếu giới này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bảy tài sản: Tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ tài. Này A-nan, bảy tài sản này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bảy tài sản này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bảy lực: Tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định và tuệ lực. Này A-nan, bảy lực này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bảy lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về bảy giác chi: Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả giác chi. Này A-nan, bảy giác chi này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy bảy giác chi này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho thầy nghe về tám chi Thánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định; đó là tám. Này A-nan, tám chi Thánh đạo này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói và dạy tám chi Thánh đạo này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật và bạch:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu! Đức Thế Tôn đã nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, thật vậy, thật vậy, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu! Ta nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Này A-nan, nếu thầy lại hỏi về đảnh pháp và đảnh pháp thối từ nơi Như Lai thì thầy hết sức tin tưởng, hoan hỷ đối với Như Lai.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật và bạch:
- Bạch Thế Tôn, nay thật đúng thời, bạch Thiện Thệ, nay thật đúng thời! Nếu Thế Tôn nói, dạy về đảnh pháp và đảnh pháp thối cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì con và các Tỳ-kheo niên thiếu từ đức Thế Tôn nghe xong, sẽ khéo léo thọ trì.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, thầy hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm, Ta sẽ nói về đảnh pháp và đảnh pháp thối cho thầy và các Tỳ-kheo niên thiếu nghe!
Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo niên thiếu thọ trì, lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử chân thật, nhân nơi tâm tư niệm, tư lương, khéo quán sát, phân biệt về vô thường, khổ, không, vô ngã. Vị ấy khi tư niệm như vậy, tư lương như vậy, khéo quán sát, phân biệt như vậy liền phát sanh nhẫn, phát sanh lạc, phát sanh dục, tức mong cầu nghe, mong cầu niệm, mong cầu quán. Này A-nan, ấy gọi là đảnh pháp. Này A-nan, nếu được đảnh pháp này nhưng lại mất đi, suy thoái, không tu thủ hộ, không tập tinh tấn, thì này A-nan, đấy gọi là đảnh pháp thối. Đối với thức nội xứ, thức ngoại xứ, xúc, thọ, tưởng, tư, ái, giới, nhân duyên khởi và nhân duyên khởi pháp cũng như vậy. Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử đối với nhân duyên khởi và nhân duyên khởi pháp này mà tư niệm, tư lương, khéo quán sát, phân biệt về vô thường, khổ, không, vô ngã. Vị ấy khi tư niệm như vậy, tư lương như vậy, khéo quán sát, phân biệt như vậy nên phát sanh nhẫn, phát sanh lạc, phát sanh dục, tức mong cầu nghe, mong cầu niệm, mong cầu quán. Này A-nan, đấy gọi là đảnh pháp. Này A-nan, nếu được đảnh pháp này nhưng lại mất đi, suy thoái, không tu thủ hộ, không tập tinh tấn, thì này A-nan, ấy gọi là đảnh pháp thối. Này A-nan, đảnh pháp và đảnh pháp thối này, thầy hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu thầy nói, dạy đảnh pháp và đảnh pháp thối này cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành Phạm hạnh.
Này A-nan, Ta đã nói về xứ, dạy về xứ, về đảnh pháp, đảnh pháp thối cho các thầy nghe. Như vị Tôn sư vì đệ tử nên khởi lòng đại từ ái, lân mẫn niệm thương xót mà mong cầu sự thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc, Ta đã thực hiện như vậy, các thầy cũng nên tự mình thực hiện. Hãy đến nơi chỗ vắng, núi rừng, dưới gốc cây, chỗ an tĩnh, thanh nhàn, tĩnh tọa tư duy, không được phóng dật, siêng năng tinh tấn, đừng để hối hận về sau. Đây là lời giáo sắc của Ta, là lời huấn thị của Ta.
Phật dạy như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo niên thiếu nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Ấm, nội, ngoại, thức, xúc, Thọ, tưởng, tư, ái giới,
Nhân duyên, niệm, chánh đoạn, Như ý, thiền, đế tưởng.
Vô lượng, vô sắc chủng, Sa-môn quả, giải thoát,
Xứ, căn, lực, xuất yếu, Tài, lực, giác đạo, đảnh.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.