Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Ương-kỳ, cùng với đại chúng Tỳ-kheo đi qua A-hòa-na, trú xứ của Kiền-ni.
Bấy giờ, đêm tàn, trời sáng, đức Thế Tôn đắp y, ôm bát vào A-hòa-na để khất thực. Sau buổi ăn trưa, đức Thế Tôn thu cất y bát, rửa tay chân, vắt ni-sưđàn lên vai, đi đến một khu rừng, vào trong rừng đó, đến dưới một gốc cây, trải ni-sư-đàn và ngồi kiết-già.
Lúc bấy giờ, một số đông Tỳ-kheo, sau giờ ăn trưa, tụ họp tại giảng đường cùng thảo luận vấn đề này:
- Này chư Hiền, đức Thế Tôn thật kỳ diệu thay, hy hữu thay! Sự tu tập niệm thân được phân biệt, được quảng bá, được hiểu biết tột cùng, được quán sát tột cùng, được tu tập tột cùng, được thủ hộ và đối trị tột cùng, khéo làm đầy đủ, khéo thực hành ở trong một tâm. Đức Phật tuyên bố niệm thân có đại quả báo, được con mắt, có con mắt thấy đệ nhất nghĩa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở chỗ tĩnh tọa, bằng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe xa hơn người, Ngài biết các Tỳ-kheo sau giờ ăn trưa, tụ họp tại giảng đường cùng bàn luận vấn đề này: “Này chư Hiền, đức Thế Tôn thật kỳ diệu thay, hy hữu thay! Sự tu tập niệm thân được phân biệt, được quảng bá, được hiểu biết tột cùng, được quán sát tột cùng, được tu tập tột cùng, được thủ hộ và đối trị tột cùng, khéo làm đầy đủ, khéo tu tập ở trong một tâm. Đức Phật tuyên bố niệm thân có đại quả báo, được con mắt, có con mắt thấy đệ nhất nghĩa.” Sau khi đức Thế Tôn nghe như vậy, vào lúc xế trưa, từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, Ngài đến giảng đường, trải chỗ ngồi, ngồi trước chúng Tỳ-kheo.
Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
- Các thầy cùng nhau vừa bàn luận việc gì? Vì việc gì mà tụ họp tại giảng đường?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con, sau giờ ăn trưa, tụ họp tại giảng đường cùng bàn luận vấn đề này: “Này chư Hiền, đức Thế Tôn thật kỳ diệu thay, hy hữu thay! Sự tu tập niệm thân được phân biệt, được quảng bá, được hiểu biết tột cùng, được quán sát tột cùng, được tu tập tột cùng, được thủ hộ và đối trị tột cùng, khéo làm đầy đủ, khéo thực hành ở trong một tâm. Đức Phật tuyên bố niệm thân có đại quả báo, được con mắt, có con mắt để thấy đệ nhất nghĩa.” Bạch Thế tôn, chúng con vừa cùng nhau bàn luận vấn đề như vậy, vì vấn đề này mà tụ họp tại giảng đường.
Đức Thế Tôn lại hỏi các Tỳ-kheo:
- Ta đã nói như thế nào về tu tập niệm thân, phân biệt, quảng bá, được đại quả báo?
Lúc ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của pháp, là chủ tể của pháp, pháp do Thế Tôn, kính mong Thế Tôn giảng thuyết! Chúng con sau khi nghe xong, sẽ được hiểu biết nghĩa lý rộng rãi.
Đức Phật dạy:
- Các thầy hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ phân biệt nghĩa ấy cho các thầy!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, lắng nghe.
Đức Phật dạy:
- Tỳ-kheo tu tập niệm thân như thế nào? Tỳ-kheo khi đi thì biết đi, đứng thì biết đứng, ngồi thì biết ngồi, nằm thì biết nằm, ngủ thì biết ngủ, thức thì biết thức, ngủ thức thì biết ngủ thức. Tỳ-kheo tùy thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Vị Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo biết rành rẽ khi vào, lúc ra, khi co, lúc duỗi, khi cúi, lúc ngước, nghi dung chững chạc, khoác Tănggià-lê ngay ngắn và ôm bát chỉnh tề, đi đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết như thật như vậy. Tỳ-kheo tùy thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo khi sanh niệm ác, bất thiện, liền dùng niệm thiện để đối trị, đoạn trừ. Như thầy trò thợ mộc kéo thẳng dây mực búng thẳng lên thân cây, rồi dùng búa bén mà đẽo cho thẳng; cũng vậy, Tỳ-kheo khi sanh niệm ác, bất thiện liền dùng niệm thiện để đối trị, đoạn trừ. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ. Như hai lực sĩ bắt một người yếu mang đi khắp nơi, tự do đánh đập; cũng vậy, Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳkheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo niệm hơi thở vào thì biết niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra thì biết niệm hơi thở ra, thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra dài thì biết thở ra dài, thở vào ngắn thì biết thở vào ngắn, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn; tập thở vào bằng cả toàn thân, tập thở ra bằng cả toàn thân; tập thở vào bằng thân hành tĩnh chỉ, tập thở ra bằng khẩu hành tĩnh chỉ. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo có hỷ lạc do ly dục nhuần thấm vào thân, phổ biến, sung mãn, biến khắp trong thân; hỷ lạc sanh ra do ly dục không đâu không biến khắp. Như người thợ tắm, bỏ chùm kết đầy chậu, nước hòa thành bọt, nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không biến khắp; cũng vậy, Tỳ-kheo có hỷ lạc do ly dục nhuần thấm vào thân, phổ biến sung mãn, khắp trong thân; hỷ lạc do ly dục không đâu không biến khắp. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Vị Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo có hỷ lạc do định sanh thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn khắp trong thân; hỷ lạc do định sanh không đâu là không biến khắp. Cũng như nước suối trên núi sạch sẽ, đứng trong, tràn đầy, nước từ bốn phương chảy đến, đổ vào một cách tự nhiên và nước từ đáy suối phun lên chảy tràn ra ngoài, thấm ướt cả núi, phổ biến, sung mãn, không đâu không có nước; cũng vậy, Tỳ-kheo có hỷ lạc do định sanh thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn khắp trong thân; hỷ lạc do định sanh không đâu không có. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳkheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo có lạc do ly hỷ thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn khắp trong thân thể; lạc do ly hỷ không đâu không có. Như các thứ sen xanh, hồng, đỏ, trắng sanh ra từ nước, lớn lên trong nước, ở dưới đáy nước, rễ, cọng, hoa, lá thảy đều thấm nhuần, phổ biến, sung mãn, không đâu không có nước; cũng vậy, Tỳ-kheo có lạc do ly hỷ thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn khắp trong thân thể; lạc do ly hỷ không đâu không có. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo ở trong thân này, với tâm thanh tịnh, ý quyết định, thành tựu an trú; ở trong thân này, với tâm thanh tịnh, không chỗ nào là không biến mãn. Như có một người trùm một cái áo dài bảy hay tám khuỷu tay từ đầu đến chân, không chỗ nào là không phủ kín; cũng vậy, Tỳ-kheo ở trong thân này, với tâm thanh tịnh, ý quyết định, thành tựu an trú; ở trong thân này, với tâm thanh tịnh, không chỗ nào là không biến mãn. Tỳkheo tùy thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo niệm quang minh tưởng, khéo thọ, khéo trì, nhớ rõ điều niệm, như trước, sau cũng vậy; như sau, trước cũng vậy; ngày cũng như đêm, đêm cũng như ngày; dưới cũng như trên, trên cũng như dưới; không điên đảo, tâm không bị ràng buộc, tâm tu quang minh, không khi nào còn bị bóng đen che lấp. Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo quán sát tướng, khéo thọ, khéo trì, khéo nhớ điều niệm. Như người ngồi quán sát kẻ nằm, rồi người nằm quán sát kẻ ngồi; Tỳ-kheo quán sát tướng, khéo thọ, khéo trì, khéo nhớ điều niệm; cũng vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo tùy theo những chỗ trong thân, tùy theo tính chất tốt xấu, từ đầu đến chân, quán thấy thảy đều đầy dẫy bất tịnh: “Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, lá lách, dạ dày, phân, não và não bộ, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu.” Như một cái bồn chứa đủ hạt giống, ai có mắt sáng thì thấy rõ rằng: “Đây là hạt lúa, gạo, kia là hạt cải, cỏ rau”; cũng vậy, Tỳ-kheo tùy theo những chỗ trong thân, tùy theo tính chất tốt xấu, từ đầu đến chân, quán thấy thảy đều đầy dẫy bất tịnh: “Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, lá lách, dạ dày, phân, não và bộ não, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: “Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.” Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành sáu đoạn; cũng như vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: “Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo quán xác chết, mới chết từ một ngày, hai ngày đến sáu, bảy ngày, đang bị quạ diều bươi mổ, sài lang cấu xé, hoặc đã được hỏa thiêu hay đã được chôn lấp, đang bị vữa nát hư hoại. Vị ấy quán sát rồi tự so sánh: “Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo như đã từng thấy trong nghĩa địa hài cốt sắc xanh, vữa nát, bị chim thú ăn một nửa, xương cốt nằm rải rác trên mặt đất. Tỳ-kheo thấy rồi tự so sánh: “Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo như đã từng thấy ở trong nghĩa địa thây chết không còn da thịt, máu mà chỉ còn gân nối liền với xương, rồi tự so sánh: “Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo như đã từng thấy trong nghĩa địa xương rời từng đốt, tản mác khắp nơi; xương chân, xương đùi, xương đầu gối, xương bắp vế, xương sống, xương vai, xương cổ, xương sọ, mỗi thứ một nơi, thấy rồi tự so sánh: “Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được định tâm, được định tâm rồi thì biết như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Lại nữa, Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau: Tỳ-kheo như đã từng thấy ở trong nghĩa địa xương trắng như vỏ ốc, xanh như lông chim bồ câu, đỏ như màu máu, mục nát, bể vụn, thấy rồi tự so sánh: “Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi.” Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, nếu ở một mình tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ tâm lo lắng mà được tịnh tâm, được định tâm rồi thì biết đúng như thật như vậy. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân.
Nếu có vị nào tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy thì các thiện pháp đều ở trong đó, gọi là Đạo phẩm pháp. Nếu Tỳ-kheo có tâm ý xác quyết biến mãn, giống như đại hải, các con sông nhỏ đều đổ vào biển; nếu người tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy thì các thiện pháp kia đều ở trong đó, gọi là Đạo phẩm pháp.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh an trú niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân. Giống như một cái bình, bên trong trống không, không có nước, đặt ngay ngắn trên mặt đất, nếu có người đem nước đến đổ vào trong bình thì Tỳ-kheo nghĩ sao, bình ấy như vậy có chứa nước được hay không?
- Bạch Thế Tôn, có thể được. Vì sao? Vì bình trống không, không có nước, đặt ngay ngắn trên mặt đất cho nên chứa nước được.
- Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh an trú niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân. Giống như có một cái bình bên trong chứa đầy nước, đặt ngay ngắn trên mặt đất, nếu có người đem nước đổ vào trong bình thì Tỳ-kheo nghĩ sao, bình như vậy có thể chứa được nước nữa không?
- Bạch Thế tôn, không thể được. Vì sao? Vì bình ấy đã đầy nước rồi, đặt ngay ngắn trên mặt đất, cho nên không chứa nước được nữa.
- Cũng vậy, nếu Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng, nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh an trú niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân. Giống như người lực sĩ khiêng hòn đá to, nặng quăng vào trong vũng bùn thì Tỳ-kheo nghĩ sao, hòn đá đó có bị lún vào bùn không?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, hòn đá bị lún vào bùn. Vì sao? Vì bùn lầy, mà đá nặng, cho nên chắc chắn hòn đá phải lún vào.
- Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh an trú niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng, nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân. Giống như người lực sĩ cầm một trái cầu nhẹ bằng lông ném vào một cánh cửa đóng kín thì Tỳ-kheo nghĩ sao, cánh cửa kia có bị dội chăng?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, không thể dội. Vì sao? Vì trái cầu thì nhẹ mà đẩy cánh cửa vững chắc thì cánh cửa không thể dội được.
- Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Samôn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân. Giống như người tìm lửa, lấy củi khô làm mồi, rồi dùng dùi khô mà dùi thì Tỳ-kheo nghĩ sao, người kia làm như vậy có tìm thấy lửa không?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, người kia tìm thấy lửa. Vì sao? Vì người kia lấy dùi khô mà dùi củi khô, cho nên chắc chắn tìm thấy lửa.
- Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào không chân chánh an trú niệm thân, tâm nhỏ hẹp; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì có thể lợi dụng được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia trống không, không có niệm thân.
Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân. Giống như người tìm lửa, lấy củi ướt làm mồi, rồi dùng dùi ướt mà dùi thì Tỳ-kheo nghĩ sao, người kia làm như vậy có tìm thấy lửa không?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, người kia không tìm thấy lửa. Vì sao? Vì người kia lấy cái dùi ướt mà dùi gỗ ướt, cho nên không tìm thấy lửa.
- Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào chân chánh an trú niệm thân, tâm vô lượng; vị ấy, nếu Ma Ba-tuần muốn lợi dụng thì nhất định không thể được. Vì sao? Vì Sa-môn, Phạm chí kia không trống không, có niệm thân.
Tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy, nên biết có mười tám công đức. Những gì là mười tám công đức?
Tỳ-kheo có thể nhẫn nại những sự đói, khát, nóng, lạnh, muỗi mòng, ruồi nhặng, gió nắng bức bách, hay gậy đánh, tiếng dữ cũng có thể nhẫn nại, thân bị bịnh tật hết sức đau đớn gần như tuyệt mạng, những điều không xứng ý đều có thể kham nhẫn. Đây là đức tánh thứ nhất khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo kham nhẫn điều không vui thích, nếu sanh điều không vui thích thì tâm nhất định không vướng mắc. Đây là đức tánh thứ hai khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo kham nhẫn sự sợ hãi, nếu sợ hãi phát sanh thì tâm nhất định không vướng mắc. Đây là đức tánh thứ ba khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo sanh ba ác niệm: Dục niệm, nhuế niệm, hại niệm; nếu ba ác niệm phát sanh, tâm nhất định không vướng mắc. Đây là đức tánh thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo ly dục, ly pháp ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Đây là đức tánh thứ tám khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo đã diệt tận ba kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào ác thú, nhất định đến chánh giác, chỉ còn thọ sanh tối đa bảy đời nữa, sau bảy lần qua lại cõi trời, cõi người, sẽ chứng đắc khổ biên. Đây là đức tánh thứ chín khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo đã diệt tận ba kiết sử, dâm, nộ, si, đã nhẹ, chỉ còn qua lại một lần ở cõi trời, cõi người, sau một lần qua lại, sẽ chứng đắc khổ biên. Đây là đức tánh thứ mười khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo đã diệt tận năm hạ phần kiết sử, sanh vào nơi kia rồi nhập Niết-bàn, được pháp bất thối, không trở lại đời này. Đây là đức tánh thứ mười một khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo nếu tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng đắc vô sắc, bằng thắng trí, tự thân tác chứng, thành tựu an trú; rồi bằng trí tuệ mà quán sát, biết rõ các lậu hoặc và đoạn trừ các lậu hoặc. Đây là đức tánh thứ mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Lại nữa, Tỳ-kheo chứng đắc như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí; các lậu đã tận diệt, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trú, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã thành, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Đây là đức tánh thứ mười tám khi tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy.
Tu tập niệm thân như vậy, quảng bá như vậy, nên biết có mười tám công đức này.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.