Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà cũng ở tại nước Xá-vệ, trong núi Ta-la-la. Lúc ấy đã qua đêm, trời sáng, Tôn giả A-na-luật-đà đắp y, mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Tôn giả A-nan cũng vào buổi sáng đắp y, mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Tôn giả A-na-luật-đà gặp Tôn giả A-nan cũng đi khất thực. Sau khi gặp, Tôn giả nói:
- Này Hiền giả A-nan, nên biết ba y vải thô của tôi đã rách hết. Này Hiền giả, nay đây có thể nhờ các thầy Tỳ-kheo may hộ y cho tôi không?
Tôn giả A-nan im lặng nhận lời nhờ may. Tôn giả A-na-luật-đà hứa sẽ nhờ may.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan sau khi vào thành Xá-vệ khất thực, ăn xong, sau buổi trưa cất y bát, rửa tay chân, lấy ni-sư-đàn vắt ở trên vai, tay cầm chìa khóa cửa đến khắp các phòng, gặp các Tỳ-kheo liền nói rằng:
- Thưa các thầy, hôm nay xin hãy qua núi Ta-la-la may y giúp cho Tôn giả A-na-luật-đà.
Bấy giờ, các thầy Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả A-nan, thảy đều đến Ta-la-la, may y cho Tôn giả A-na-luật-đà.
Lúc ấy, đức Thế Tôn gặp Tôn giả A-nan tay cầm chìa khóa cửa đến khắp các phòng; sau khi gặp, Ngài bảo:
- Này A-nan, ông vì việc gì mà tay cầm chìa khóa cửa đến khắp các phòng?
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, con nay nhờ các thầy Tỳ-kheo may y cho Tôn giả A-na-luật-đà.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, tại sao ông không thỉnh Như Lai may y cho A-na-luật-đà?
Khi ấy, Tôn giả A-nan liền chắp tay hướng về đức Phật, bạch rằng:
- Cúi mong Thế Tôn qua núi Ta-la-la may y cho Tôn giả A-na-luật-đà!
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời Tôn giả A-nan. Bấy giờ, đức Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan qua núi Ta-la-la, trải tòa ngồi trước chúng Tỳ-kheo. Lúc ấy, trong núi Ta-la-la có tám trăm Tỳ-kheo và đức Thế Tôn cùng ngồi chung may y cho Tôn giả A-na-luật-đà. Lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng có trong chúng. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
- Này Mục-kiền-liên, Ta có thể vì A-na-luật-đà trải rộng tấm y, cắt rọc rồi may lại thành y.
Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai hữu, chắp tay hướng về đức Thế Tôn và bạch:
- Cúi mong đức Thế Tôn trải rộng tấm y, các vị Tỳ-kheo sẽ cùng nhau cắt rọc khâu vá, may chung lại thành y!
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền vì Tôn giả A-na-luật-đà, trải rộng tấm y, các Tỳkheo cùng nhau cắt rọc khâu vá, may chung lại. Ngay trong ngày hôm ấy, chư vị đã may xong cho Tôn giả A-na-luật-đà ba y. Đức Thế Tôn lúc ấy biết ba y của Tôn giả A-na-luật-đà đã may xong, liền bảo rằng:
- Này A-na-luật-đà, ông hãy nói pháp Ca-hy-na cho các thầy Tỳ-kheo nghe. Ta đang đau lưng, muốn nghỉ một lúc.
Tôn giả A-na-luật-đà bạch: – Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Khi ấy, đức Thế Tôn xếp chồng bốn lớp y Ưu-đa-la-tăng để trải lên giường, gấp y Tăng-già-lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, khởi quang minh tưởng, thường tác khởi tư tưởng, an lập nơi chánh niệm, chánh trí.
Lúc đó, Tôn giả A-na-luật-đà bảo các Tỳ-kheo:
- Này chư Hiền, xưa kia, lúc tôi chưa xuất gia học đạo, nhàm chán cảnh sanh, già, bệnh, chết, khóc than, ảo não, buồn tủi, lo lắng, muốn đoạn trừ cái khối đau khổ lớn lao này. Này chư Hiền, khi đã nhàm chán, tôi quán sát như vầy: “Đời sống tại gia hết sức chật hẹp, đầy bụi bặm, xuất gia học đạo, khơi mở sự rộng rãi bao la. Ta nay sống tại gia bị trói buộc trong vỏ xiềng xích, không được trọn đời tu các Phạm hạnh. Ta nên từ bỏ một ít tài vật và nhiều tài vật, từ bỏ một số thân tộc và nhiều thân tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo.” Này chư Hiền, sau đó tôi từ bỏ một ít tài vật và nhiều tài vật, từ bỏ một số thân tộc và nhiều thân tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Này chư Hiền, khi tôi đã xuất gia học đạo, từ bỏ dòng họ rồi, thọ pháp Tỳ-kheo, tu hành cấm giới, thủ hộ giới giải thoát. Tôi lại khéo léo nhiếp phục các oai nghi lễ tiết, thấy tội nhỏ nhặt cũng thường ôm lòng lo sợ, thọ trì học giới.
Này chư Hiền, tôi xa lìa giết hại, đoạn trừ giết hại, vất bỏ đao gậy, có tàm có quý, có tâm từ bi, lợi ích tất cả ngay đến côn trùng nhỏ nhặt. Về việc sát sanh, tôi đã đoạn trừ tâm đó.
Này chư Hiền, tôi đã xa lìa trộm cắp, đoạn trừ trộm cắp, được cho thì mới lấy, vui nơi việc lấy vật được cho, thường ưa bố thí, hoan hỷ, không keo kiết, không mong cầu báo đáp. Về việc trộm cắp, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi đã xa lìa phi Phạm hạnh, đoạn trừ phi Phạm hạnh, siêng năng tu Phạm hạnh, tinh cần, diệu hạnh thanh tịnh, không ô uế, lìa dục, đoạn dâm. Về việc phi Phạm hạnh, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa nói láo, đoạn trừ nói láo, nói lời chân thật, thích sự chân thật, an trú nơi chân thật, không di động, tất cả có thể tin theo, không dối gạt thế gian. Về lời nói láo, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai lưỡi, thực hành không nói hai lưỡi, không phá hoại người khác, không nghe lời người này rồi đem nói lại với người kia để phá hoại người này, không nghe lời người kia rồi đem nói với người này để phá hoại người kia, với người chia rẽ thì muốn cho hòa hợp, với người hòa hợp thì làm cho hoan hỷ, không lập đảng, không ham thích bè đảng, không rêu rao bè đảng. Về lời nói hai lưỡi, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác. Nếu có lời nói mà ngôn từ thô ác, hung hăng, tiếng dữ, trái tai, mọi người không vui, mọi người không mến, khiến cho người khác khổ não, không được an định thì tôi đoạn trừ lời nói như vậy. Nếu có lời nói trong trẻo, hòa thuận, mềm mỏng, xuôi tai, đáng vui, đáng mến, khiến cho người khác an lạc, ngôn từ đầy đủ, rõ ràng, không làm người sợ, khiến họ được an định thì tôi nói lời ấy. Về lời nói thô ác, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi đã xa lìa nói thêu dệt, đoạn trừ nói thêu dệt, nói lời hợp thời, lời chân thật, đúng pháp, đúng nghĩa, lời chỉ tức và ưa nói lời chỉ tức, hợp theo việc, hợp theo thời, khéo léo dạy dỗ, khéo léo quở trách. Về lời nói thêu dệt, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa sự mưu sinh, đoạn trừ sự mưu sinh như vầy: Vất bỏ dụng cụ đong lường, cái đấu, cái hộc, không nhận lãnh hàng hóa, không buộc trói người, không mong bẻ đấu đong lường, không vì lợi nhỏ xâm lấn dối gạt người khác. Về sự mưu sinh như vầy, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh quả phụ, đồng nữ; đoạn trừ việc nhận lãnh quả phụ, đồng nữ. Về việc nhận lãnh quả phụ, đồng nữ, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh tôi tớ, đoạn trừ việc nhận lãnh tôi tớ. Về việc nhận lãnh tôi tớ, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh voi, ngựa, trâu, dê; đoạn trừ việc nhận lãnh voi, ngựa, trâu, dê. Về việc nhận lãnh voi, ngựa, trâu, dê, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh gà, heo; đoạn trừ việc nhận lãnh gà, heo. Về việc nhận lãnh gà, heo, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh ruộng vườn, tiệm quán; đoạn trừ việc nhận lãnh ruộng vườn, tiệm quán. Về việc nhận lãnh ruộng vườn, tiệm quán, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh lúa, mì, đậu sống; đoạn trừ việc nhận lãnh lúa, mì, đậu sống. Về việc nhận lãnh lúa, mì, đậu sống, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa rượu, đoạn trừ rượu. Về việc uống rượu, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa giường lớn, cao, rộng; đoạn trừ giường lớn, cao, rộng. Về giường lớn, cao, rộng, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa tràng hoa, anh lạc, bột hương, phấn sáp, bôi xoa thân thể; đoạn trừ tràng hoa, anh lạc, phấn sáp thơm tho, bôi xoa thân thể. Về tràng hoa, anh lạc, phấn sáp thơm tho, bôi xoa thân thể, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa ca, múa, xướng, hát, đến xem nghe; đoạn trừ ca, múa, xướng, hát và đến xem nghe. Về việc ca, múa, xướng, hát và đến xem nghe, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc nhận lãnh vàng bạc, của báu; đoạn trừ việc nhận lãnh vàng bạc, của báu. Về việc nhận lãnh vàng bạc, của báu, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi xa lìa việc ăn quá giờ ngọ; đoạn trừ việc ăn quá giờ ngọ, ăn một lần, không ăn đêm, học ăn đúng thời. Về việc ăn quá giờ ngọ, tôi đã trừ sạch tâm đó.
Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới tụ này, lại học theo hạnh hết sức tri túc, y đủ để che thân, ăn đủ để nuôi thân, đi đến đâu đều mang theo y bát, đi không luyến nhớ. Giống như chim ưng mang theo đôi cánh, bay lượn trên không trung; này chư Hiền, tôi cũng vậy, đi đến đâu đều mang theo y bát, đi không luyến nhớ.
Này chư Hiền, khi tôi đã thành tựu Thánh giới tụ này và hết sức tri túc, tôi lại học giữ gìn các căn, thường nghĩ đến sự đóng chặt các căn, nghĩ đến mong muốn sáng suốt, giữ gìn tâm niệm mà được thành tựu, hằng khởi chánh trí. Nếu mắt thấy sắc thì không chấp tướng cũng không đắm sắc, vì phẫn nộ, tranh cãi nên giữ gìn nhãn căn, trong tâm không sanh tham cầu, dòm ngó, lo lắng và không sanh điều ác, bất thiện, hướng đến điều đó nên gìn giữ nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân căn cũng vậy. Nếu ý biết pháp thì không thọ tướng, cũng không đắm pháp, không phẫn nộ, tranh cãi, nên giữ gìn ý căn, trong tâm không sanh tham lam, dòm ngó, lo lắng và không sanh các điều ác, bất thiện, hướng đến điều đó nên gìn giữ ý căn.
Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới tụ này, hết sức tri túc và gìn giữ các căn, tôi lại học chánh trí, xuất nhập, khéo léo quán sát, phân biệt, co duỗi, cúi ngước, đều thong thả; khéo khoác y Tăng-già-lê và các y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều chánh tri cả.
Này chư Hiền, khi tôi đã thành tựu Thánh giới tụ này và hết sức tri túc, gìn giữ các căn, chánh trí xuất nhập, tôi lại học hạnh viễn ly, cô độc một mình, ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới gốc cây, nơi an tịnh, thanh nhàn, núi non, hốc đá, đất trống, hoặc ở trong núi rừng, hoặc ở giữa gò mả. Này chư Hiền, khi tôi đã đến chỗ vô sự, hoặc dưới gốc cây, nơi an tịnh thanh nhàn, trải ni-sư-đàn, ngồi kiếtgià, chánh thân, chánh nguyện, phản niệm, không hướng ngoại, đoạn trừ tham tâm, tâm không tranh cãi; thấy tài vật, dụng cụ sinh hoạt của người khác không khởi tham tâm mong muốn cho mình được. Về lòng tham lam, tôi đã trừ sạch tâm đó. Về sân nhuế, thụy miên, điệu hối, tôi đã trừ sạch tâm đó. Tôi đã đoạn trừ nghi hoặc đối với các thiện pháp, không còn do dự. Về sự nghi hoặc, tôi đã trừ sạch tâm đó. Này chư Hiền, tôi đã đoạn trừ năm triền cái, làm cho tâm ô uế, làm cho tuệ yếu kém, ly dục, ly pháp ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú.
Này chư Hiền, tôi đã được tâm định như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không buồn phiền, nhu nhuyến, khéo an trú, được tâm bất động, tôi học chứng nghiệm như ý túc trí thông. Này chư Hiền, tôi đã được vô lượng như ý túc, đó là phân thân một thành nhiều, hợp nhiều thành một, một thì trụ một, có tri, có kiến, không bị trở ngại bởi vách đá, đi vào vách đá chẳng khác nào đi giữa hư không, đi vào đất như đi vào nước, đi trên nước như đi trên đất, ngồi kiết-già mà bay lên không trung giống như chim bay, thân cao đến Phạm thiên, dùng tay rờ mặt trời, mặt trăng, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, đại oai thần.
Này chư Hiền, khi tôi đã được thanh tịnh như vậy, không ô uế, không buồn phiền, nhu nhuyến, khéo an trú, được tâm bất động, tôi học chứng nghiệm thiên nhĩ trí thông. Này chư Hiền, tôi dùng thiên nhĩ nghe âm thanh loài người và không phải loài người, gần xa, hay và không hay.
Này chư Hiền, khi tôi đã được định tâm như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không phiền, nhu nhuyến, khéo an trú, được bất động tâm, tôi học chứng nghiệm tha tâm trí thông. Này chư Hiền, chúng sanh khác suy nghĩ, hành động, tôi dùng tha tâm trí biết được tâm của họ đúng như thật; có tâm dục, biết có tâm dục đúng như thật; không tâm dục, biết không tâm dục đúng như thật; có giận không giận, có si không si, có uế không uế, tụ họp tán loạn, cao thấp, lớn nhỏ, tu không tu, định không định, tôi đều biết đúng như thật; không có tâm giải thoát tôi biết không có tâm giải thoát đúng như thật; tâm giải thoát tôi biết tâm giải thoát đúng như thật.
Này chư Hiền, tôi đã được tâm định như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không buồn phiền, nhu nhuyến, khéo an trú, được tâm bất động, tôi học ức túc mạng trí thông. Này chư Hiền, có hạnh nghiệp, có tướng mạo, tôi đều nhớ xưa kia trải qua vô lượng, nào là một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, hoại kiếp, vô số thành hoại kiếp, người đó tên thế này, người đó xưa kia đã qua, đã từng sanh chỗ đó tên họ như vậy, danh tự như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, chịu khổ, được vui như vậy, sống lâu như vậy, sống lâu rồi chết như vậy, chết đây sanh kia, chết kia sanh đây; tôi sanh chỗ này, họ như vậy, tên như vậy, sống như vậy, ăn uống như vậy, chịu khổ vui như vậy, sống lâu như vậy, sống lâu rồi chết như vậy.
Này chư Hiền, tôi đã được tâm định như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không buồn phiền, nhu nhuyến, khéo an trú, được tâm bất động, tôi học sanh tử trí thông. Này chư Hiền, tôi dùng thiên nhãn thanh tịnh nhìn xa hơn người, thấy chúng sanh này lúc chết lúc sanh, sắc đẹp sắc xấu, vi diệu không vi diệu, qua lại chỗ thiện chỗ bất thiện đều tùy chỗ tạo nghiệp của chúng sanh mà thấy họ đúng như thật. Nếu chúng sanh này thành tựu ác hạnh về thân, ác hạnh về khẩu, ác hạnh về ý, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu nghiệp tà kiến thì chúng sanh ấy bởi nhân duyên này khi thân hoại mạng chung chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục; nếu chúng sanh này thành tựu diệu hạnh về thân, diệu hạnh về khẩu, diệu hạnh về ý, không phỉ báng Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến thì chúng sanh ấy bởi nhân duyên này khi thân hoại mạng chung chắc chắn được lên cõi thiện, sanh lên thiên giới.
Này chư Hiền, tôi đã được định tâm như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không buồn phiền, khéo an trú, được tâm bất động, tôi học Lậu tận trí thông. Này chư Hiền, tôi biết như thật đây là khổ, biết như thật đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo; biết lậu, biết lậu tập, biết lậu diệt, biết lậu diệt đạo. Tri như vậy, kiến như vậy nên tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu, khi đã giải thoát liền biết là đã giải thoát, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.”
Này chư Hiền, nếu có Tỳ-kheo nào phạm giới, phá giới, khuyết giới, xuyên lậu giới, ô uế giới, làm đen giới mà muốn nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lên lầu gác Chánh pháp thì nhất định không có điều đó. Này chư Hiền, ví như cách thôn không xa có nhà lớn, nhà nhỏ, lầu cao lầu thấp, trong đó để một cái thang hoặc mười cấp, mười hai cấp; nếu có người đến cầu xin, muốn được leo lên nhà gác đó, nhưng nếu không leo lên nấc thang thứ nhất mà muốn leo lên nấc thứ hai thì không thể được; nếu không leo nấc thang thứ hai mà muốn leo nấc thứ ba, thứ bốn lên đến nhà gác cũng không thể được. Này chư Hiền, cũng như thế, nếu có thầy Tỳkheo nào phạm giới, phá giới, khuyết giới, xuyên lậu giới, ô uế giới, làm đen giới mà muốn nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lầu gác Chánh pháp thì nhất định không có điều đó.
Này chư Hiền, nếu có Tỳ-kheo nào không phạm giới, không phá giới, không khuyết giới, không xuyên lậu giới, không ô uế giới, không làm đen giới, muốn nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lầu gác Chánh pháp thì chắc chắn có điều đó. Này chư Hiền, như cách thôn này không xa, có ngôi nhà gác, trong đó để một cái thang hoặc có mười nấc hay mười hai nấc, nếu có người đến cầu xin, muốn được leo lên nhà gác đó, nếu leo lên nấc thứ nhất của thang ấy, rồi muốn leo lên nấc thứ hai thì chắc chắn có thể được; nếu leo nấc thứ hai, rồi muốn leo nấc thứ ba, nấc thứ tư lên đến lầu gác thì chắc chắn có thể được. Này chư Hiền, cũng như thế, nếu có Tỳ-kheo nào không phạm giới, không phá giới, không khuyết giới, không xuyên lậu giới, không ô uế giới, không làm đen giới, muốn nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lầu gác Chánh pháp thì nhất định có điều đó. Này chư Hiền, tôi nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lầu gác Chánh pháp, với phương tiện nhỏ để quán sát ngàn thế giới. Này chư Hiền, như người có mắt ở trên lầu cao, với phương tiện nhỏ nhìn khoảng đất trống phía dưới, thấy ngàn ụ đất; này chư Hiền, tôi cũng như vậy, nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng huệ, lầu gác Chánh pháp, với phương tiện nhỏ thấy ngàn thế giới.
Này chư Hiền, như con voi lớn của vua hoặc có bảy báu hoặc lại giảm tám lấy lá cây đa-la mà che đậy; cũng vậy, tôi che giấu lục thông này. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc của tôi về như ý túc trí thông, nếu có gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc Thiên nhĩ trí thông của tôi, nếu có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc Tha tâm trí thông của tôi, nếu có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc Túc mạng trí thông của tôi, nếu có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc Sanh tử trí thông của tôi, nếu có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Này chư Hiền, đối với sự chứng đắc Lậu tận trí thông của tôi, nếu có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi tôi, tôi sẽ trả lời.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan thưa:
- Thưa Tôn giả A-na-luật-đà, nay đây tập hợp ngồi trong núi Ta-la-la, gồm có tám trăm Tỳ-kheo, và đức Thế Tôn ở giữa để may y cho Tôn giả A-na-luậtđà. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về sự chứng đắc Như ý túc trí thông thì vị ấy cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về chứng đắc Thiên nhĩ trí thông thì cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về Tha tâm trí thông thì cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về Túc mạng trí thông thì cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về Sanh tử trí thông thì cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nếu đối với Tôn giả A-na-luật-đà, vị nào có điều gì nghi ngờ về Lậu tận trí thông thì cứ hỏi, Tôn giả A-na-luật-đà sẽ trả lời. Nhưng trong một thời gian dài, chúng tôi đã dùng tâm biết được tâm của Tôn giả A-na-luật-đà, đúng là Tôn giả A-na-luật-đà có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần.
Khi ấy, đức Thế Tôn chỗ đau đã dứt và được an ổn, Ngài liền trở dậy ngồi kiết-già. Sau khi ngồi, đức Thế Tôn khen Tôn giả A-na-luật-đà:
- Lành thay, lành thay, A-na-luật-đà! Ông đã nói pháp Ca-hy-na cho các Tỳ-kheo nghe. Này A-na-luật-đà, ông lại nói pháp cho các Tỳ-kheo nghe. Này A-na-luật-đà, ông thường thường nói pháp Ca-hy-na cho các Tỳ-kheo nghe.
Rồi đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy vâng thọ Ca-hy-na pháp, đọc tụng, tu tập Ca-hy-na pháp, khéo giữ Ca-hy-na pháp. Vì sao? Vì Ca-hy-na pháp cùng tương ưng với pháp, là căn bản Phạm hạnh, đưa đến thông, đưa đến giác, đưa đến Niết-bàn. Nếu có người con nhà dòng dõi, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo thì hãy nên chí tâm vâng thọ Cahy-na pháp, khéo léo vâng thọ Ca-hy-na pháp. Vì sao? Vì Ta không thấy trong quá khứ các Tỳ-kheo may y như vậy, như Tỳ-kheo A-na-luật-đà. Ta cũng không thấy trong vị lai, hiện tại, các thầy Tỳ-kheo may y như vậy, như Tỳ-kheo A-naluật-đà. Vì sao? Vì hôm nay tám trăm Tỳ-kheo cùng ngồi nơi núi Ta-la-la và Thế Tôn cũng có trong đó, may y cho Tỳ-kheo A-na-luật-đà. Như vậy, Tỳ-kheo A-na-luật-đà có đại như y túc, đại oai đức, đại phước hựu, đai oai thần.
Đức Phật thuyết giảng như vậy, Tôn giả A-na-luật-đà và các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.